Nội dung
Cây ngải cứu còn có tên gọi khác là thuốc ngải cứu, cây thuốc cao, ngải điệp.
Tên khoa học Artemisia vuklaris L, thuộc họ cúc Asteraceae ( Compositae ).
Ngải cứu là vị thuốc thông dụng cả trong Đông Y lẫn Tây Y.
1. Mô tả cây ngải cứu
Ngải cứu là một loại cỏ sống lâu năm, cao từ 50 cm – 60 cm, thân to có rãnh dọc. Lá mọc so le, rộng và không có cuốn ( nhưng ở phía dưới thường có cuốn ), xẻ thùy lông chim, màu lá ở hai mặt rất khác nhau. Mặt trên nhẵn có màu lục sẫm, mặt dưới có màu trắng tro và có nhiều lông nhỏ màu trắng. Hoa mọc thành chùy kép, gồm nhiều cụm hoa hình cầu.

2. Phân bổ, thu hái và chế biến
Ngải cứu mọc hoang ở rất nhiều nơi ở Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới. Ở Viêt Nam thì ngải cứu được trồng với quy mô gia đình, trồng quanh nhà mà chưa thấy trồng ở quy mô lớn.
Cây ngải cứu thường được hái lá và cành tập trung vào tháng 6 dương lịch, sau đó được phơi khô trong râm mát. Có khi hái về phơi khô tán nhỏ, lấy phần bông trắng và tơi gọi là ngải nhung.
Trong phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu, người ta có thể kích thích những huyệt hoặc bằng kim châm cứu vào da thịt hoặc bằng cách đặt lên huyệt một miếng gừng tươi mỏng có châm vài lổ để tránh cho da thịt khỏi bị cháy bỏng nhưng hơi nóng vẫn vẫn thấm tới da thịt rồi vê một ngải nhung bằng một mồi thuốc lào đặt trên miếng gừng, mà đốt, sức nóng kích thích huyệt gọi là cứu. Sở dĩ ngừi ta dùng ngải nhung vì nó có nhiều tin dầu, cháy lâu konng tắt.
Xem thêm: Cây cỏ gấu
3. Thành phần hóa học
Hiện nay hoạt chất của ngải cứu chưa được xác định, mặc dù ngải cứu được dùng cả trong Đông Y và Tây Y. Chỉ biết trong ngải cứu có tin dầu, ít tamin. Thành phần chủ yếu của tinh dầu ngải cứu là xitenol và alpha thuyon. Ngoài ra còn một ít ademin và cholin.
4. Tác dụng dược lý
Tinh dầu ngải cứu thuộc các tinh dầu có tính chất làm kích thích cho say. Alpha thuyon có tác dụng hưng phấn, nhưng nếu dùng quá nhiều có thể gây nên điên cuồng.
Nói chng tác dụng dược lý của ngải cứu ít thấy tài liệu nghiên cứu, mặc dù ngải cứu được đưa vào dược điển của nhiều nước. Ngải cứu chủ yếu được dùng làm thuốc điều kinh.
5.Công dụng và liều dùng
Đông y coi ngải cứu là một vị thuốc có tính hơi ôn, vị cây, dùng làm thuốc ôn khí huyết, trực hàn thấp, điều kinh, an thai, chữa đau bụng do hàn, kinh nguyệt không đều, thai động không yên, thổ huyết máu cam.
Ngải cứu được dùng làm thuốc điều kinh: một tuần lễ trước dự kỳ kinh thì uống mỗi ngày từ 6 g đến 12 g, sắc với nước hay hãm với nước sôi để uống như nước trà, chia làm 3 lần uống / ngày. Có thể uống dưới dạng thuốc bột từ 5 g – 10 g hay dưới dạng cao đặc từ 1 g – 4 g.
Nếu có thai, thuốc khôn gây sẩy thai vì thuốc không có tác dụng kích thích đối với tử cung có thai.
Ngoài công dụng điều kinh, ngải cứu còn được dùng làm thuốc giúp cho tiêu hóa, chữa đau bụng, nôn mửa, thuốc giun, sốt rét.
6. Đơn thuốc có ngải cứu
Thuốc chữa kinh nguyệt kéo dài, máu ra nhiều, người mệt mỏi, đi đứng mệt yếu: hàng tháng đến ngày bắt đầu hành kinh và cả những ngày đang hành kinh thì uống sáng 1 lần chiều 1 lần theo đơn: lá ngải cứu khô 10 g, thêm 200 ml nước cô còn 100 ml rồi thêm ít đường cho dễ uống. Có thể dùng 20 g sắc với 400 ml nước cô còn 200 ml, xong chia làm 2 lần uống sáng và tối thì sau 1 ngày – 2 ngày sẻ cho kết quả.
Đơn thuốc này còn có thể dùng chữa kinh nguyệt kéo dài, đau bụng, máu ra đen và xấu. Nhưng uống hàng tháng vào 7-10 ngày trước nagyf dự có kinh.
Thuốc an thai ( chữa đang có thai, đau bụng, chảy máu): Lá ngải cứu 16 g, tía tô 16 g, nước 600 ml, sắc đặc còn 100 ml. Thêm ít đường vào cho dễ uống. Chia làm 3 -4 lần uống / ngày.
Discussion about this post