Nội dung
Thiên Nguyệt lịch sách Lễ ký nói: Vị thuốc này sinh vào giữa mùa hạ nên gọi là bán hạ. Bán hạ là thân rễ phơi hay sấy khô và chế biến của nhiều cây khác nhau, đều thuộc họ Ráy Araceae.
Bán hạ Việt Nam gồm những cây Typhonium divaricatum Decne (Arum divaricatum L., Arum trilobatum Lour), Typhonium trilobatum (Schott).
Cây bán hạ Trung Quốc Pinellia ternata (Thunb.) Breiter hay Pinellia tuberifera Tenore. 3. Cây chương diệp bán hạ Pinellia pedatisecta (Schott).
Ngoài ra còn một số cây khác nữa, cần chú ý khi dùng và nghiên cứu. Cũng nên biết rằng mặc dù cùng một cây nhưng tuỳ theo củ to nhỏ khác nhau mà cho vị thuốc tên khác nhau. Ví dụ tại một số vùng ở nước ta, củ nhỏ của cây bán hạ thì khai thác và dùng với tên bán hạ, còn củ to cùng cây ấy thì lại được khai thác và dùng với tên nam tính. Việc sử dụng này không những lẫn lộn trong nước, mà ta còn xuất khẩu nữa, do sự lẫn lộn như vậy cho nên cũng không thể căn cứ vào vị bán hạ nhập nội mà khẳng định là do cây này vì ta có thể nhập vị bán hạ mà ta đã xuất sang Trung Quốc.
1. Mô tả cây
Cây bán hạ Việt Nam (Typhonium trilobatum Schott) (Hình 15) còn gọi là củ chóc, lá ba chìa, cây chóc chuột, là một loại cỏ không có thân, có củ hình cầu đường kính tới 2cm. Lá hình tim, hay hình mác, hoặc chia 3 thuỳ dài 4-15cm rộng 3,5-9cm. Bông mo với phần hoa đực dài 59mm, phân trần dài 17-27mm. Quả mọng, hình trứng dài 6mm .
Cây bán hạ Trung Quốc (Pinellia ternata Thunb.) Breiter (Hình 16) khác cây bán hạ Việt Nam ở chỗ thuỳ xẻ sâu rõ rệt hơn. Mặc dầu gọi là bán hạ Trung Quốc để phân biệt với bán hạ “Việt Nam”, nhưng có người nói đã thấy cây này mọc ở Lào Cai nhưng chưa được khai thác.
Cây chương diệp bán hạ (Pinellia pedatisecta Schott) khác những cây trên ở lá chia thành chín thuỳ khía sâu.
2.Phân bố, thu hái và chế biến
Việt Nam mọc hoang ở khắp những nơi đất ẩm ở nước ta từ Nam chí Bắc. Còn moc Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản.
Người ta đào rễ (củ), rửa sạch đất cát, lựa củ to (gọi là nam tinh), củ nhỏ (gọi là bán hạ). Có thể dùng tươi (thường chỉ dùng giã đắp lên nơi rắn độc cắn), thường dùng khô có chế biến. Có nhiều cách chế biến mục đích theo quan niệm đông y để giảm bớt độ độc (tẩm cam thảo) hay tăng tác dụng chữa ho (tẩm gừng hay bồ kết). Sau đây là một số cách chế biến thường thấy:
- Tẩm cam thảo và bồ kết, Củ chóc (bán hạ Việt Nam) rửa sạch ngâm nước trong 2-3 ngày, mỗi ngày thay nước một lần cho đến khi nước trong hẳn. Cứ 1kg bán hạ thêm 0,100kg cam thảo, 0,100kg bồ kết và nước cho đủ ngập rồi đun cho đến khi cạn hết nước, vớt ra phơi hay sấy khô. Nguyên nhân chưa rõ, nhưng chúng ta biết cam thảo có tác dụng giảm độc, trừ ho, bồ kết cũng có tác dụng chữa ho.
- Tầm gừng và phèn chua. Củ bán hạ cũng rửa sạch và ngâm nước như trên cho tới khi nước trong. Cứ 1kg bán hạ thì thêm 50g phèn chua, và 300g gừng tươi giã nhỏ thêm nước vào cho ngập. Ngâm trong 24 giờ, lấy ra rửa sạch. Đô cho chín. Thái mỏng. Lại tẩm nước gừng: Cứ 1kg bán hạ thêm 150g gừng tươi giã nát, thêm ít nước, vắt lấy nước và cho bán hạ vào ngâm một đêm. Lấy ra sao vàng là dùng được. Phèn chua có tác dụng làm cho hết nhớt.
Chúng ta biết rằng gừng cũng có tác dụng chữa họ. Còn cách chế biến có cân như vậy không, còn phải nghiên cứu thí nghiệm thêm.
Trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Tran thấy có ghi về chế biến như sau: Phàm dùng bán hạ, phải đem ngâm nước nóng chừng nửa ngày cho hết nhớt, nếu không thời có độc, uống vào ngứa cổ không chịu được. Trong các bài thuốc người ta dùng bán hạ kèm theo cả sinh khương (gừng tươi) là vì sinh khương chế được chất độc của bán hạ. Trong bài thuốc bán hạ Dược điển Trung Quốc 1953 thì chỉ thấy ghi bán hạ không chế dùng cùng với sinh khương.
Theo tài liệu cổ (Lôi Học tức Lôi Công) cũng ghi theo Bản thảo cương mục, người ta chế như sau: Bán hạ 120g, bạch giới tử 80g, dấm chua 200g; cho bạch giới tử giã nhỏ vào dấm quấy đều, thêm bán hạ vào ngâm một đêm. Lấy ra rửa sạch hết nhớt mà dùng.
Một phương pháp khác: Rửa sạch , dùng nước nóng ngâm, thay nước luôn cho hết nhớt, thái mỏng, tẩm nước gừng, sấy thật khô mà dùng. Có thể tán nhỏ thành bột trộn với nước ép gừng, phơi khô dùng.
Như vậy phương pháp ghi trong sách cổ cũng gần như phương pháp ta thường làm nhưng chỉ thêm bạch giới tử cũng là một vị thuốc chữa ho.
Do phương pháp bào chế chưa thống nhất như vậy, cho nên khi nghiên cứu cần phải chú ý.
Bán hạ thu hoạch từ mùa hạ đến thu đông. Đào về rửa sạch đất cát, đãi sạch vỏ mỏng ngoài, ngâm nước phèn cho sạch nhớt, phơi khô là được. Chỉ khi nào bào chế để dùng mới theo những phương pháp nói trên.
3. Thành phần hóa học
Bán hạ Trung Quốc, theo Lý Thừa Cố (Trung Quốc dược dụng thực vật đồ giám) có một ít tinh dầu 0,003-0,013%, một chất ancaloit, một ancol, một chất cay, phytosterol. Ngoài ra còn dầu béo, tinh bột, chất nhầy.
Theo Quốc lập Sơn Đông đại học, hệ hoá học (năm1934, SỐ 3: 463-477), có một chất cay dễ tan trong ête etylic, dung dịch trong lête có phản ứng ancaloit, nhiệt có tác dụng làm giảm độ cay.
Xem thêm: Cây hồng hoa, Cây Hoa Cứt Lợn
4. Tác dụng dược lý
Tác dụng chữa ho: Theo báo Trung Hoa y học tạp chí (1954, 5: 325-330) sau khi dùng 1ml cồn iốt 1% gây ho cho mèo, Tải dùng nước sắc bán hạ 20% (1ml tương ứng với 0,2g bán hạ) thì thấy với liều 0,6g bán hạ trên 1kg thể trọng tác dụng chữa ho rõ rệt. Liều ấy cho kết quả tương đương với liều codein photphat 1g/ 1kg.
Theo Linh Mộc Đạt ( Nhật Bản, 1931) tác dụng của bán hạ là do ancol và ancaloit bay hơi có tác dụng ức chế trung khu và mạt tiêu thần kinh.
Tác dụng chống nôn: Kinh Lợi Bản (1935) đã thí nghiệm trên 6 con chó nặng từ 11,5 đến 28kg, mỗi con tiêm vào da từ 0,01g apomocphin để gây nên. Cách một ngày tiêm một lần, tất cả tiêm 4 lần. Đến lần tiêm thứ hai thì đồng thời tiêm 5ml dung dịch nước bán hạ (1ml tương ứng với 1g bán hạ); lần thứ 3 trước hết tiêm 5ml dung dịch bán hạ, 5 phút sau tiêm apomocphin, lần thứ 4, trước hết tiêm 5ml dung dịch bán hạ và 15 phút sau tiêm apomocphin. Kết quả lần thứ nhất bình quân nôn 13 lần, tiếp tục luôn trong 31 phút 15 giây. Lần thứ hai nôn 2 lần, liền trong 16 phút 28 giây. Lần thứ 3 nôn 3 – 6 lần liên tục 15 phút 40 giây. Lần thứ 4 nôn 2 lần liên tục trong 13 phút 11giây. Do đó tác giả đi tới kết luận là có khả năng ức chế gây nôn do apomocphin. Theo Linh Mộc Đạt (1931) tác dụng chống nôn là do phytosterrol.
Tuy nhiên nếu uống sống ngược lại lại gây nôn, phải chăng đun nóng có tác dụng, làm mất chất gây nôn trong bán hạ theo như sách cổ có ghi ?
Độc tính: Theo dược lý đích sinh dược học (Nhật Bản 1933) dịch chiết côn bán hạ gây cho con vật co cấp mà chết. Tác dụng này giống như do tác dụng hưng phấn đối với một tiêu thần kinh.

5. Công dụng và liều dùng
Là một vị thuốc dùng theo kinh nghiệm dân gian để chữa phụ nữ có thai bị nôn mửa hoặc chữa nôn trong trường hợp viêm dạ dày mãn tính.
Nó còn là một vị thuốc chữa ho (làm cho long đờm), chữa nhức đầu, đau dạ dày mãn tính.
Ngày dùng 1,5 đến 4g; có thể dùng tới liều từ 4 đến 12g bán hạ đã chế biến hoặc hơn nữa (xem phần đơn thuốc có bán hạ dưới đây). Dùng ngoài, tuỳ theo liều lượng và dùng tươi, giã nát đắp lên nơi đau.
Trong sách cổ ghi về tính chất và tác dụng như sau: Vị cay, ôn, có độc, có tác dụng táo thấp (làm khô ẩm thấp), hoá đờm, giáng nghịch (làm hạ hơi đưa lên) hết nôn. Dùng trong những trường hợp nôn mửa, đờm thấp, hen suyễn, đầu nhức, đầu váng, không ngủ, dùng ngoài có tác dụng tiêu thũng. Phụ nữ có thai dùng phải cẩn thận.
Đơn thuốc có vị bán hạ dùng trong nhân dân:
- Đơn thuốc có vị bán ha ghi trong Dược điển Trung Quốc 1953: Bột bán hạ 80g, bột gừng sống 50g, nước 3000ml đun sôi và sắc cho đến khi cạn còn 1000ml; lọc qua bông và dùng nước cất pha thêm vào cho đủ 1000ml. Đơn thuốc chỉ chế khi cần đến. Theo Dược điển Trung Quốc, mỗi lần dùng 100-300ml, trung bình mỗi ngày dùng 200-600ml tương ứng với 8-24g hoặc 16-18g bán hạ. Chữa ho và nôn mửa khi có thai.
- Tiểu bán hạ gia phục linh thang (đơn thuốc của Trương Trọng cảnh): Bán hạ 8g, phục linh 6g, sinh khương 3g, nước 300ml; sắc còn 100ml. Uống dần trong ngày, chữa phụ nữ có thai, nôn mửa.
Discussion about this post