Nội dung
Viêm màng não là một bệnh rất ngay hiểm, nó có thể để lại những biến chứng và hậu quả nghiêm trọng cho bệnh nhân
1. Viêm màng não
Biện chứng Đông y: Dương minh thực nhiệt.
Cách trị: Thanh tiết thực nhiệt.
Đơn thuốc: Đại thừa khí thang.
Bài thuốc: Đại hoàng (sống) 9g, Mang tiêu 9g, Chỉ thực 12g, Hậu phác 3g. Sắc uống.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nữ, đột nhiên nhức đầu, nôn khan, uống Ngô thù du thang, bệnh nặng thêm, nằm thấy đỡ, ngồi dậy thì đau dữ dội khắp đầu, họ làm đau thắt bụng, ấn vào lại càng không chịu được. Người không sốt, mạch hơi Nhược, nhưng sợ nhìn ánh sáng, miệng khô, không giống chứng dương minh phủ, thực bệnh bị che dấu, đồng thời người không nóng, mạch hơi Nhược, vì vậy, phải cho xổ gấp. Đó là giải quyết tận gốc rễ. Nếu (căn cứ chứng) người nóng nhiều, mạch Đại mà Thực rồi mới luận trị thì muộn mất rồi. Cho dùng Đại thừa khí thang, khoảng 3 giờ sau khi uống thuốc, người bệnh đại tiện ra một bãi nước đục và mọi triệu chứng đều nhẹ hẳn.
Nhận xét: Bệnh này khi mới phát, thuốc có tác dụng rõ rệt, vì vậy bệnh thuyên giảm mau chóng .

2.Viêm màng não dịch tể
Biện chứng Đông y: Ôn tà nhập dinh, nhiệt thịnh sinh ra Can phong.
Cách trị: Lương dinh, thanh nhiệt, giải độc.
Đơn thuốc: Phục phương thanh dinh thang.
Bài thuốc: Ô tê giác 1,5g, Huyền sâm 9g, Mạch đông 12g, Sinh địa (tươi) 25g, Đan sâm 9g, Hoàng liên 3g, Trúc diệp tâm 4,5g, Ngân hoa 9g, Liên kiều 12g, Tử tuyết đơn 2,5g (chia làm 2 lần uống). Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nữ, 29 tuổi, đến khám ngày 14/12/1971. Qua kiểm tra bệnh nhân được chẩn đoán là viêm màng não dịch tễ, cho nằm viện, sốt cao bứt rứt không yên, chảy máu cam, đêm nằm mê sảng, thần trí lúc tỉnh lúc mê, mạch Tế Sác, lưỡi đỏ sẫm. Đó là ôn tà nhập dinh, có lúc co giật, thuộc về nhiệt cực sinh phong, phong hỏa cùng bốc lên, gân mạch không được nuôi đủ. Nên điều trị bằng phép lương dinh, thanh nhiệt, giải độc. Cho dùng Phục phương thanh dinh thang. Uống liền 2 thang, người tỉnh táo, hết co giật .
3. Viêm màng não dịch tể
Biện chứng Đông y: Ôn nhiệt dịch độc thâm nhập dinh huyết, nội hãm Tâm bào.
Cách trị: Thang dinh thấu nhiệt, thanh Tâm khai khiếu.
Đơn thuốc: Dịch lệ giải độc thanh tâm thang.
Bài thuốc: Thạch cao (sống) 200g, Tê giác 10g, Hoàng liên 10g, Hoàng cầm 15g, Huyền sâm 50g, Sinh địa (tươi) 50g, Tri mẫu 15g, Đan bì 15g, Chích tiêu chi tử 15g, Đậu xanh (sống) 100g, Xương bồ (tươi) 15g, Bạch mao căn 100g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Lưu XX, nam 42 tuổi, viên chức. Mới phát bệnh thì gai rét, đau đầu, tay chân đau mỏi. Đã uống Bình nhiệt tán và Kinh phòng bại độc tán, không kết quả. Dùng thuốc công hạ cũng không tác dụng. Sau đó uống thuốc ôn bổ, dần dần thành ra sốt cao, cuồng táo, mê sảng, mê man, không nhận ra ai, đại tiểu tiện đều bí. Vội đi chẩn trị, qua xét nghiệm và lâm sàng chẩn đoán là viêm màng não dịch tễ. Chất lưỡi đỏ, sẫm, rêu đen, mạch Trầm Tế mà Sác. Theo mạch, chứng, đây là bệnh nhiệt thương hàn, mạch Phù Hồng là thuận, mạch thấy Trầm Tế là bệnh và mạch trái nhau, lại do thầy thuốc trước chưa rõ chứng gì, chữa không đúng cách, dịch bệnh mới phát, mồ hôi ra nhiều, nhầm dùng phép công, lại dùng ôn bổ, đến nỗi tà nhiệt bừng bừng, vào phần dinh huyết, nhập vào Tâm bao. Căn cứ vào sự phân tích bệnh tình, phải nhanh chóng cho xổ để tồn âm, nhưng xét thấy bệnh nhân đã bị nhiều lần xố, làm ra mồ hôi, âm dịch hao tổn, do đó không dùng phép công nữa mà chuyển sang phép nhuận đạo, thuốc tuy khác nhưng cùng một lý. Cho dùng 2 thang Dịch lệ giải độc thanh tâm thang. Lại phối hợp dùng 2 viên An cung ngưu hoàng hoàn, chia làm 2 lần sáng và tối uống trong ngày, uống nhiều lần 500ml nước quả Lê. Sau khi dùng thuốc, ra ít mồ hôi, dần dần đỡ sốt, đại tiểu tiện thông, tinh thần tỉnh táo, mạch chuyển Trầm Huyền Tế, Sác, chất lưỡi đỏ, rêu vàng nâu mà khô, vẫn nói mê, đó là nhiệt sót lại chưa trừ hết. Lại dùng bài thuốc trên có giảm bớt lượng, dùng được 2 thang, lại dùng thêm 1 viên An cung ngưu hoàng hoàn. Uống hết thuốc, sáu mạch bình hòa, rêu lưỡi bớt mà hơi khô. Lúc đó còn nói hơi ngượng. Cho thuốc theo ý bài Tăng dịch thang, dùng 2 thang, sau đó lại uống Ngưu hoàng thanh tâm hoàn, nửa tháng sau bệnh nhân đã dậy đi lại được. Điều dưỡng hơn 1 tháng nữa người khoẻ, khỏi bệnh (Vương Hải Binh – tỉnh Cát Lâm).
4. Viêm não do Virus
Biện chứng Đông y: Tà nhiệt nhập dinh, đờm nhiệt che Tâm.
Cách trị: Thanh dinh tiết nhiệt, địch đờm khai khiếu.
Đơn thuốc: Thanh dinh phục tỉnh thang.
Bài thuốc: Thuỷ ngưu giác 30g, Linh dương giác 0,6g (bột, uống với nước thuốc), Sinh địa 30g, Phấn đơn bì 9g, Thạch xương bồ 30g, Trần đởm tinh 9g, Thiên trúc hoàng 9g, Uất kim 9g, Đạm trúc diệp 9g, Mộc thông 3g, Hổ phách tiết (vụn) 1,5g (uống với nước thuốc), Xạ hương 0,09g (uống với nước thuốc). Sắc uống mỗi ngày một thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nữ, 30 tuổi. Hôn mê bất tỉnh đã 26 ngày, đại tiểu tiện không tự chủ, tay chân co quắp và liệt, tự đổ mồ hôi rất nhiều, đờm khò khè trong họng, mạch Tế Sác, lưỡi đỏ, rêu lưỡi nhờn. Kiểm tra Tây y xác định là viêm não do virus. Điều trị hiệu quả không rõ rệt. Chẩn đoán Đông y là bệnh do tà nhiệt nhập vào phần dinh, đờm nhiệt che Tâm. Điều trị bằng cách thanh dinh tiết nhiệt, địch đờm khai khiếu. Dùng Thanh dinh phục tỉnh thang 1 thang. Sau khi dùng thuốc, thần trí dần dần tỉnh táo, tình trạng chân tay cử động tốt. Lại dùng thêm 10 thang loại ích khí dưỡng âm để điều lý nữa, các chứng đều hết, bệnh khỏi hẳn.
Thang ích khí dưỡng âm đã dùng để điều lý là: Đại sinh địa 18g, Mạch môn đông 9g, Sinh cam thảo 4,5g, Thái tử sâm 9g, Kinh nguyên sâm 9g, Bắc sa sâm 9g, Thạch hộc (tươi) 9g, Chích hoàng kỳ 9g, Chế hoàng tinh 9g, Phì ngọc trúc 9g, Tri mẫu 9g, Địa long 12g, Mẫu lệ (nung) 15g.
Nhận xét: Thanh dinh phục tỉnh thang là bài Tế giác địa hoàng thang cùng với Địch đờm thang gia giảm mà thành .

5. Viêm não do Virus
Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt nội uẩn, đờm nhiệt hỗ kết, che mờ Tâm khiếu.
Cách trị: Thanh nhiệt lợi thấp, hóa đờm khai khiếu.
Đơn thuốc: Tuyên thanh giải uất thang.
Bài thuốc: Hoắc hương 12g, Bội lan 12g, Pháp bán hạ 12g, Qua lâu (vỏ) 18g, Hoàng liên 9g, Hoàng cầm 12g, Chi tử 12g, Thiên trúc hoàng 10g, Uất kim 12g, Thạch xương bồ 9g, Thuỷ trúc như 12g, Lục nhất tán 30g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Chu XX, nữ, 32 tuổi, xã viên. Ngày 26/4/1980 sơ chẩn. Bệnh nhân phát bệnh từ 10 hôm trước, đau đầu, sốt, nôn, dần dần chi dưới bên phải khó cử động, kèm run rẩy, hôn mê, cấm khẩu, đại tiểu tiện không tự chủ. Đã điều trị tại bệnh viện công xã địa phương, sau đó đã đến một bệnh viện ở Trùng Khánh để chẩn đoán và điều trị nhưng không có hiệu quả rõ rệt… Chuyển đến viện chúng tôi, chẩn đoán là viêm não do virus, đưa sang khoa Đông y điều trị. Khám thấy rêu lưỡi vàng, gốc lưỡi bẩn, mạch Nhu Sác. Bệnh là thấp nhiệt nội trở, đờm nhiệt hỗ kết, che mờ Tâm khiếu. Cần thanh nhiệt lợi thấp, hóa đờm khai khiếu. Dùng Tuyên thanh giải uất thang. Uống được 2 thang các triệu chứng trên thấy giảm, người tỉnh nhưng còn chưa nói được. Lại tiếp tục dùng bài thuốc trên có bổ sung thêm Chí bảo đơn. Dùng liền 3 thang, lúc này đã ra khỏi trạng thái hôn mê, cũng đã nói được ít lời về bệnh tình, chân tay đã cử động được, tự trở dậy, đại tiểu tiện được. Uống tiếp 3 thang nữa cơ bản đã hồi phục, mấy ngày sau, người nhà đưa về quê, nửa tháng sau người nhà viết thư báo rằng bệnh đã khỏi hẳn, đã tham gia việc đồng ruộng được rồi.
Nhận xét: Trong bài Tuyên thanh giải uất thang có các vị Bội lan, Hoắc hương là thuốc phương hương hóa trọc; Trúc hoàng, Pháp bán hạ, Trúc như để thanh thấp hóa đờm; Uất kim, Qua lâu (vỏ), Thạch Xương bồ giải uất, tuyên tý, lợi khiếu; Chi tử, Hoàng liên, Hoàng cầm thanh Tâm hỏa, tiết nhiệt, trừ phiền, Lục nhất tán thanh nhiệt, sinh tân, lợi thấp, có thể làm cho thấp tà bị tống ra ngoài theo nước tiểu. Phối hợp các vị trên, có tác dụng hóa thấp tiết nhiệt, thanh Tâm, lợi khiếu, hóa đờm, vì vậy trị khỏi bệnh .
6. Viêm não do Virus
Biện chứng Đông y: Thử nhiệt, đờm thấp che lấp Tâm khiếu.
Cách trị: Thanh hóa đờm thấp, khai khiếu tỉnh thần.
Đơn thuốc: Gia giảm địch đờm thang.
Bài thuốc: Đởm nam tinh 6g, Thạch xương bồ 3g, Băng phiến 1,5g (cho vào thuốc nước uống), Quảng uất kim 9g, Thanh mông thạch 12g, Trúc nhự 12g, Quảng trần bì 9g, Vân phục linh 12g, Tiểu xuyên liên 6g, Hoàng cầm 9g, Đại hoàng (chế) 6g, Cam thảo (sinh) 3g. Sắc uống, ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nữ, 32 tuổi, công nhân. Bệnh đã 1 tháng, đúng giữa mùa hè nóng nực, sau khi lao động thấy váng đầu, muốn nôn, rồi người không tỉnh táo, đại tiểu tiện không tự chủ, đã được điều trị không kết quả nên nhập viện. Khám thấy người béo phì, bên phải trương lực cơ chân tay giảm, có cảm giác đau, còn tinh thần mê man, cổ hơi cứng, bên phải, dấu hiệu Babinski dương tính, tim, phổi, gan, lá lách chưa thấy khác thường, kiểm tra máu, nước tiểu, phân, bình thường, đáy mắt, điện tâm đồ v.v… chưa có gì khác thường. Hai lần kiểm tra dịch não tủy, bạch cầu 44/mm3 và 90/mm, lượng đường và albumin chưa thấy biến đổi rõ rệt. Chẩn đoán lâm sàng là viêm não do virus. Cho điều trị kết hợp Đông Tây y. Xem thấy mạch Huyền hơi Hoạt, gốc lưỡi rêu nhờn, hơi vàng, chất lưỡi đỏ sẫm. Vì thể trạng béo phì, “Người béo thì nhiều đờm”, đờm thấp phục sẵn, gặp mùa nóng, dần dần bị thử nhiệt làm dính lại và che lấp Tâm khiếu. Vì vậy, điều trị bằng cách thanh hóa thấp đờm, khai khiếu tỉnh thần.
Cho dùng Gia giảm địch đờm thang, uống thêm Tổ hợp hương hoàn 1 viên. Ngoài ra, còn truyền tĩnh mạch Hydrocortisone, tiêm bắp thuốc Bản lam căn, và uống thuốc “Bệnh độc linh”. Được 2 ngày thì tỉnh lại, đối đáp được, có thể khống chế được đại tiểu tiện. Lúc đó biết kêu đau đầu, đáy là do đờm hỏa theo Can dương thượng cang. Đổi sang dùng phép bình Can tiềm dương, thanh nhiệt, hóa đờm để điều trị. Đổi bài thuốc khác: Song câu đằng 30g, Mẫu lệ (sinh) 15g, Đại bạch thược 15g, Thạch quyết minh 12g, Thiên trúc hoàng 6g, Đởm nam tinh 6g, Trúc nhự 12g, Tiểu xuyên liên 6g, Đạm trúc diệp 10g, Quảng uất kim 10g, Ngưu tất 6g. Uống 5 thang, hết đau đầu, tự vận động được, bệnh thoát khỏi cơn nguy hiểm. Chuyển sang buồng bệnh thông thường, uống thuốc loại Corticoid, điều trị thêm bằng Hương sa Lục quân tử thang. Bệnh tình ngày càng cải thiện. Tổng cộng nằm viện 93 ngày, khỏi bệnh, ra viện .
7. Viêm não do Virus
Biện chứng Đông y: Tâm Thận dương hư.
Cách trị: Bổ ích Tâm Thận, ôn dương hóa khí.
Đơn thuốc: Gia giảm thận khí hoàn thang.
Bài thuốc: Câu kỷ tử 15g, Dâm dương hoắc 15g, Ba kích (thiên) 10g, Quế chi 10g, Sơn dược 20g, Vân phục linh 15g, Trạch tả 10g, Bạch thược 15g, Thục địa (hoàng) 15g, Sơn thù nhục 10g, Chích cam thảo 6g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nam, 28 tuổi, nông dân, nhập viện ngày 17/8/1977. Bệnh từ 14 ngày trước, do lao động mệt mỏi lại bị mưa ướt, đầu mình đau nhức, ăn uống kém, nhưng không sốt, ho, nôn mửa. Ngày hôm sau bệnh nặng thêm, nói năng lẫn lộn, phản ứng chậm, đi không vững. Đến ngày thứ 3 thì ngậm miệng không nói, có lúc lẩm bẩm, có vẻ ngớ ngẩn, đi lại khó khăn, bước đi loạng choạng, chân tay lạnh, hai tay không cầm được vật nặng, không nắm được, vận động lại không tự chủ được, thân mình cứng đờ không co được, đại tiểu tiện không tự chủ được, phân nát. Đã điều trị ở bệnh viện khu vực và huyện nhưng không kết quả mấy. Khám thấy: thân nhiệt 37°C, mạch 53 lần/phút, huyết áp 120/80 mmHg, thần trí hoảng hốt, động tác thiếu phối hợp, tinh thần mê man, mất ngôn ngữ một phần, trí lực giảm, hai đồng tử giãn rộng, phản xạ ánh sáng chậm, đầu và ngũ quan không có dị hình, dưới da chưa thấy các điểm xuất huyết, tim phổi chưa thấy gì khác thường, không sờ thấy gan lách, hai bên đầu gối phản xạ nhạy, dấu hiệu Babinski bên trái dương tính, bên phải âm tính. Thử máu, chức năng gan, thận đều trong giới hạn bình thường. Xét nghiệm dịch não tủy cũng không có gì khác lạ rõ rệt, điện não đồ có bất thường rõ. Chẩn đoán lâm sàng là viêm não do virus. Bắt mạch thấy mạch Trì, Hoãn, không lực, chất lưỡi nhạt, lưỡi dày, rêu lưỡi trắng mỏng mà nhuận. Dựa vào mạch và chứng, đây là Tâm Thận dương hư. Cho điều trị bằng Gia giảm thận khi hoàn (thang). Uống được 3 thang đã có thể dậy hoạt động, nói được nhiều hơn, chân tay ấm lên, mạch có lực hơn. Uống 3 tháng nữa, đại tiểu tiện đã có thể kiềm chế được. Tuy nhiên sức định hướng vẫn còn kém, do nguyên nhân tim, vì thế, thêm vào bai thuốc trên Thạch xương bồ 10g, (Chích) Viễn chí 10g. Uống tiếp 20 thang nữa, các chứng đều hết. Kiểm tra điện nào đó đã thấy bình thường, khỏi bệnh, ra viện. Sau đó nghỉ ngơi hơn nửa tháng rồi đi làm việc như thường. Theo dõi hơn 3 năm, tình hình tốt đẹp, không thấy có di chứng.
Bệnh nhân nữ, 46 tuổi, cán bộ. Đến khám ngay 14/12/1978. Gần một năm trước, kinh nguyệt không thấy đã 80 ngày, toàn thân mệt mỏi, có lúc bị ngây dại, đến bệnh viện khám, chẩn đoán là “Rối loạn tiền mãn kinh”, đã điều trị nhưng không có kết quả. Sau đó, thấy thần trí hoảng hốt, tiểu không tự chủ, tay chân quờ quạng, phát sảng, không ăn, hôn mê. Phải chuyển vào bệnh viện thần kinh để trị. Kiểm tra điện não đồ, phát hiện thấy nhiều vùng bên ngoài có khác thường. Lâm sàng chẩn đoán là viêm não virus, đã dùng kích thích tố và kháng sinh để trị. Trong lúc điều trị, xuất hiện hai tay co lại, bàn tay nắm chặt, trương lực cơ hai chân tăng, không thể tự vận động. Sau 2 lần hội chẩn, đều chẩn đoán là viêm não do virus. Cho dùng thêm Đông dược loại thanh nhiệt, giải độc, khứ thấp, khai khiếu, bình Can, tức phong. 7 ngày sau, bệnh có chuyển biến tốt. Sau khi chuyển đến bệnh viện Bắc Kinh để điều trị, chẩn đoán là di chứng viêm não do virus (thể co cứng). Điều trị bằng kích thích tố khoảng hơn 2 tháng, thần trí chuyển sang tỉnh táo, vì vậy chuyển về Quán Dương theo ý của gia đình bệnh nhân. Theo hồ sơ lưu, đã dùng thuốc Tây, Tê giác địa hoàng thang, An cung ngưu hoàng hoàn, điều trị bằng Đông Tây y, bệnh không tiến triển. Chuyển sang chúng tôi điều trị. Khám thấy người bệnh béo mập, sắc mặt trắng, không tươi, không nói được, tinh thần tỉnh, hai tay co quắp vào ngực, chân bên phải co vào, cứng, hai tay lạnh, 2 chân cứng thẳng, chân bên phải quay ra ngoài. Phản xạ đầu gối tăng, ấn vào mắt cá (+), đứng, đi, ngồi, nằm đều phải có người giúp, không thể tự ý làm được, mạch Trầm Tế, Nhược, chất lưỡi nhạt, bẩn, thân lưỡi mềm, rêu lưỡi nhuận. Căn cứ vào mạch, lưỡi và chứng, cho rằng đây là Tâm Thận dương hư. Điều trị phải bổ ích Tâm Thận, ôn dương, hóa khí. Cho dùng Gia giảm thận khi hoàn (thang) như sau: Câu kỷ tử 15g, Dâm dương hoắc 15g, Ba kích thiên 15g, Quế chi 10g, Sơn dược 20g, Vân linh 15g, Trạch tả 10g, Bạch thược 15g, Thục địa 15g, Sơn thù nhục 10g, Chích cam thảo 10g, Bổ cốt chỉ 10g, sắc uống mỗi ngày 1 thang, chia làm 3 lần. Uống thuốc 1 tháng, tự mình có thể đứng, nằm, tự ăn được cơm. Uống thuốc 2 tháng, có thể viết được, xem được. Uống thuốc 3 tháng, có người giúp thì đi được. Sau 4 tháng, nói được câu đơn giản. Uống 6 tháng, nhờ người dìu, có thể lên xuống thang. Sau 8 tháng, hoàn toàn hồi phục, có thể tự đi một mình, nói lưu loát hơn, tay chân không còn cứng nữa, có thể tự sinh hoạt được mọi thứ một mình, người bệnh và gia đình rất hài lòng với kết quả điều trị.
Nhận xét: Di chứng sau viêm não do virus là một chứng hiểm nghèo rất ít gặp, nói chung thường cho là tình trạng này không đảo ngược được. Thực ra, không hẳn như vậy, nếu có cách trị đúng, phần lớn chức năng có thể phục hồi. Trên lâm sàng có thể nghiệm thấy rằng, trong khi trị bệnh có thuốc men, có kiêng cữ, người nhà phối hợp, dùng thuốc kiên trì, không tuỳ tiện nửa chừng đổi thuốc. Khi trị chứng này thường dùng phép ôn bổ thận dương, như Kim quỹ thận khi hoàn. Thuốc có phản ứng phụ là quá nhiệt, khó dùng lâu được, vì vậy phải gia giảm mà dùng. Lâm sàng chứng minh là rất tốt. Nói chung hồi phục ngôn ngữ so với sự khôi phục vận động có chậm hơn như kinh nghiệm đã cho thấy. Ngoài ra do tăng tính mẫn cảm của da thịt, nên không thể phối hợp châm cứu hoặc không thể kéo dài. Các thuốc rất quý như An cung ngưu hoàng hoàn, Tử tuyết đơn lại quá hàn lương (lạnh, mát), dường như cũng không dùng được, cần tiếp tục nghiên cứu thêm trên thực tiễn lâm sàng.
Thuốc trong vườn vừa giới thiệu 7 bài thuốc đông y điều trị viêm màng não.
Discussion about this post