Nội dung
Lỵ trực khuẩn là bệnh nhiễm khuẩn Shigella gây ra cho đường ruột.
1. Lỵ trực khuẩn nhiễm độc
Biện chứng Đông y: Bên ngoài nhiễm phải khí thấp nhiệt dịch độc, bên trong bị thương tổn do ăn uống sống lạnh, làm hại đến trường vị.
Cách trị: Thanh nhiệt trừ thấp, giải độc, cứu nghịch. Đơn thuốc: Gia vị liên mai thang.
Bài thuốc: Hoàng liên 2g, Ô mai 2g, Mạch đông 6g, Sinh địa 6g, A giao 5g, Sa sâm 6g, Thạch hộc 6g, Mộc qua 6g, Tây dương sâm 2g (lượng dùng cho trẻ 8 tháng). Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nam, 8 tháng. Một ngày hạ tuần tháng 7/1970, cháu bắt đầu tiêu chảy mỗi ngày 3 – 4 lần, sốt 38,5°C, cho uống thuốc Tây sulfadiazin, viên hạ sốt, bệnh thấy có biến chuyển tốt. Nhưng hôm thứ hai, sau bữa cơm sáng, đột ngột sốt 40,5°C, co giật, đại tiện lỏng, mầu đỏ, trắng, mỗi ngày trên 10 lần, bụng trướng, vào bệnh viện địa phương cấp cứu, chẩn đoán là lỵ trực khuẩn nhiễm độc. Vào viện truyền dịch, cho uống Cloramphenicol, tiêm bắp Neostigmin và chữa bằng Đông y, 15 ngày sau bệnh diễn biến tốt, xuất viện. Sau khi xuất viện 8 giờ, đến tối lại đột nhiên phát sốt, có giật, hôn mê, lại vào viện cấp cứu, điều trị 5 ngày bệnh nhân vẫn trong trạng thái hôn mê, sốt cao không lui, tiêu chảy không cầm, có lúc co giật, vì điều trị không kết quả nên tự động xuất viện. Lúc mẹ cháu đem đến xin chữa bệnh, bệnh nhi gầy đét, lơ mơ, thân nhiệt 39,5°C, da nhẽo, tiêu chảy mỗi ngày hơn 10 lần, nhiều chất nhày, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ nổi gai, rêu vàng khô. Cho dùng Gia vị liên mai thang. Sau khi uống 2 thang, bệnh thấy chuyển tốt rõ rệt, tinh thần tỉnh táo, nhiệt độ xuống còn 38°C (lấy ở hậu môn), đại tiện giảm, chỉ còn 2 – 3 lần mỗi ngày, ít chất nhày, rêu vàng, đã hơi ướt. Vì bệnh nhân hơi họ, đầy bụng, do đó, trong bài thuốc trên bỏ Sa sâm, Thạch hộc thêm Trần bì, Hạnh nhân, Hậu phác, Tỳ bà diệp, uống tiếp 3 thang, các chứng trên đều hết. Sau đó ăn uống điều hòa, bệnh nhi hoàn toàn bình phục. Theo dõi không thấy tái phát, phát triển bình thường.
Nhận xét: Liên mai thang bắt nguồn từ sách Ôn bệnh điều biện, gia vị để điều trị lỵ trực khuẩn nhiễm độc, kết quả rất tốt. Trong bài thuốc có Hoàng liên để tả hỏa ở Tâm bào, A giao để ích âm, tức phong ở Can; Mạch đông, Sinh địa để bổ Thận thuỷ, tư dưỡng Can mộc; Ô mai liễm âm để sinh tân, chỉ tả; Thêm Sa sâm, Thạch hộc để tăng tính dưỡng âm, sinh tân dịch, âm dịch tăng, dập tắt được Can phong, làm hết co giật, hôn mê; Thêm Mộc qua vị chua nhập Can để sinh tân, nhu cân, hòa Vị, khử thấp. Khi thấp hết, nhiệt giảm, tự cầm đi lỵ. Sốt và tiết tả làm thương tổn khí âm, vì vậy, thêm Tây dương sâm để giúp hồi phục.

2. Lỵ trực khuẩn nhiễm độc
Biện chứng Đông y: Hàn lạnh làm cho thức ăn uống ngừng lại, ngưng kết ở hạ tiêu, ủng trệ không thông.
Cách trị: Tiêu tích trệ, tán hàn tà.
Đơn thuốc: Ngũ tiêu ẩm gia giảm.
Bài thuốc: Tiêu tra 15g, Mạch nha 10g, Kiến khúc 10g, Xuyên phác 1,5g, Đại bạch 6g, Bào khương 5g, Nguyên hồ 10g, Mộc hương 3g, Nhị sửu 15g, sắc uống.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nữ, 32 tuổi, nông dân. Ngày 9/9/1974, đẻ thuận 1 trai đủ tháng. Mấy hôm sau, ăn một bát bún lạnh, sau đó đi ngủ, tỉnh dậy thấy bụng dưới đầy trướng rất đau, sờ nhẹ đau tăng, sốt, không ăn uống được. Ở phòng khám đã cho dùng Pyramydon, Morphin, Atropin v.v… Dùng thuốc xong thì tạm thời giảm đau, nhưng sau mấy giờ lại đau như cũ. Tay chân lạnh, bụng mót rặn, muốn đại tiện, tiêu phân lỏng, nhầy, xám đen, đại tiện rồi vẫn không giảm đau, tiểu tiện bình thường. Sau đó sốt cao không giảm, sáng 39,2°C, chiều 40,2°C, cứ thế 5 ngày, đã dùng Penicillin, Streptomycin, nhưng không thấy giảm sốt, bụng không giảm đau. Chẩn đoán lâm sàng là lỵ trực khuẩn nhiễm độc. Bệnh nhân xin trị bằng Đông y.
Bệnh nhân phát dục, tiêu tiểu đều tốt, thể chất tốt, vẻ mặt đau khổ, mạch Trầm Trì mà Khẩn, có lực, rêu lưỡi trắng dày, bụng dưới đau, cự án. Chứng và mạch cho thấy là chứng sản hậu, thuộc loại hư, lại gặp hàn lạnh làm đình trệ thức ăn uống, ngưng kết ở hạ tiêu. Nên dùng phép tiêu tích khử hàn. Dùng bài thuốc Ngũ tiêu ẩm gia giảm.
Uống 1 thang, chừng hai giờ sau đại tiện khoảng 200ml phân nhầy như keo, xong thì bụng hết đau hắn, bụng dưới cũng mềm. Lại uống như trên thêm một lần nữa, uống xong, đại tiện một lần nữa, phân mềm. Hôm sau, trong bài thuốc bỏ Nhị sửu, uống thêm 1 thang, uống xong đi đại tiện và thân nhiệt mau chóng trở lại bình thường, các chứng đều hết, bệnh khỏi.
Nhận xét: Trong bài thuốc có Tiêu tra, Kiện khúc, Mạch nha, Đại bạch là thuốc tiêu tích, trừ mủ; Xuyên phác, Mộc hương, Nguyên hồ hành khí chỉ thống; Bào khương ôn hạ nguyên, tán hàn, hợp với Nhị sửu để xổ nhẹ, tuy xổ mà không làm hại chính khí, làm tà khí đi ra theo phân. Sách Nội kinh viết: “Kỳ hạ giả hành nhi kiệt chi”. Vì vậy cách chữa lỵ trực khuẩn nhiễm độc này có hiệu quả ngay .
3. Lỵ trực khuẩn cấp
Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt nội uẩn.
Cách trị: Thanh nhiệt giải độc, lợi thấp, điều khí bổ huyết.
Đơn thuốc: Thang bào ẩm, Đương quy Thược được thang gia giảm.
Bài thuốc:
Thang bào ẩm: Mễ xác 10g, Mật ong 31g. Mễ xác sắc lấy nước, rót mật ong vào. Mỗi ngày uống 1 thang, chia làm 2 lần sáng, chiều.
Đương quy Thược dược thang gia giảm: Đương quy 60g, Bạch thược 60g, Lai phục tử 3g, Quảng mộc hương 3g, Hoàng liên 9g, Địa du 12g, Chỉ xác 6g, Tân lang 6g, Hoạt thạch 10g, Cam thảo 6g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang vào buổi tối.
Hiệu quả lâm sàng:
Đông y thường chia bệnh lỵ thành: thấp nhiệt lỵ, hưu tức lỵ (cửu lỵ), hư hàn lỵ, dùng Thang bào ẩm để trị tiêu (ngọn). Dùng Đương quy Thược được thang gia giảm để trị bản (gốc), có thể có tác dụng tốt. Phép điều trị này đối với già trẻ, phụ nhi đều thích hợp, đã sử dụng trên lâm sàng mấy chục năm, chữa cho rất nhiều ca kết quả đều rất tốt.
Bạch XX, nam, 30 tuổi, nông dân. Sáng ngày 4/7/1974, đột nhiên sốt, lạnh, tiêu lỏng, ngay chiều hôm đó đi lỵ ra mủ máu, mót rặn, vào nhà tiêu liên tục, vào viện cấp cứu. Kiểm tra thân nhiệt 39°C, huyết áp 120/70 mmHg, bạch cầu 13.600/mm, trung tính 80%, lympho 20%, thử phân thấy nhiều tế bào mủ và hồng cầu, chẩn đoán lỵ trực khuẩn cấp, cho dùng Cloromycetin, Tetracyclin, thuốc lỵ đặc hiệu, phối hợp truyền dịch, nhưng điều trị đến 4 ngày mà hiệu quả không rõ rệt. Ngày 8 tháng 7 chuyển sang điều trị Đông y. Bệnh nhân đau bụng, một rặn, đi lỵ phân lẫn lộn trắng đỏ. Đó là thấp nhiệt tích trệ ở ruột, khí huyết bị tắc, chức năng dẫn truyền rối loạn, sinh đau bụng mót rặn, thấp nhiệt nung nấu, tổn thương khí huyết đến nỗi thành lỵ. Phân đỏ trắng lẫn lộn, hậu môn nóng rát, tiểu ít mà đỏ là do thấp nhiệt hạ trú. Rêu lưỡi vàng bẩn, mạch Hoạt Sác cũng là dấu hiệu của thấp nhiệt. Dùng phép thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, điều khí, bổ huyết, cho uống Thang bào ẩm và Đương quy Thược được thang gia giảm. Buổi sáng uống Thang bào ẩm, buổi tối dùng Đương quy Thược dược thang gia giảm, mỗi ngày mỗi bài 1 thang. Bệnh nhân uống 2 ngày, mọi chứng đều hết, hoàn toàn khoẻ mạnh, ra viện.
Nhận xét: Mễ xác chất bình, vào các kinh Phế, Đại trường và Thận, trị các chứng họ lâu, tả lỵ, di tinh, đau tim, bụng, gân cốt. Vì có tính cố sáp, lúc dùng nó nên thêm các vị khác, tránh làm ngăn trở Vị, gây trở ngại ăn uống. Mật ong vị ngọt, tính bình, vào các kinh Phế, Vị, Đại trường, có tác dụng hoạt trường thông tiện, nhuận Phế, giảm họ, giảm đau. Bài Thang bào ẩm dùng tính cố sáp của Mễ xác là dụng ý cầm đại tiện lại ngay, giảm số lần đi, đồng thời giảm đau; Dùng Mật ong để hoạt trường thống tiện, giảm bệnh, Mật ong trị lỵ rất tốt (báo cáo cho thấy xét nghiệm in vitro, mật ong có tác dụng diệt trực khuẩn lỵ và cầu khuẩn sinh mủ), tác dụng nhanh, hết hẳn đau mót rặn, phối hợp với Đương quy Thược dược thang gia giảm để trị gốc, hiệu quả càng rõ rệt .

4. Lỵ trực khuẩn mạn tính
Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt ẩn náu lâu ngày, lưu trệ ở đại trường.
Cách trị: Điều hòa khí huyết, tiết nhiệt đạo trệ, giải độc chỉ lỵ, kiện Thận, trợ Thận.
Đơn thuốc: Thược dược thang gia giảm.
Bài thuốc: Đương quy 50g, Bạch thược 50g, Binh lang 15g, Chỉ xác 15g, Lai phục tử 10g, Cam thảo 5g, Tửu quân 7,5g, Nhục quế 5g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhan nam, 38 tuổi, công nhân. Đến khám tháng 9/1973, người bệnh kể là đi lỵ, tiêu ra máu mủ đã 9 năm. Từ tháng 7/1964 bệnh nhân bị kiết lỵ, vào một bệnh viện, đã dùng Syntomycin, bệnh khỏi, nhưng sau khi ra viện thường bị tái phát, miệng khát, sức yếu, đại tiện đau, mót rặn, phân có máu mủ, mỗi ngày đại tiện hơn 20 lần, về sau hầu như năm nào cũng vào viện 1 lần, bệnh thường phát vào mùa hè. Năm 1968 sau khi ở bộ đội về, bệnh càng nặng thêm, thường đại tiện có máu mủ, bất kể mùa đông hay hè, lúc nặng lúc nhẹ, đã dùng nhiều thứ thuốc mà không khỏi. Chứng bệnh hiện nay là đau bụng, mót rặn, phân có máu mủ, mỗi ngày hơn chục lần, không sốt. Kiểm tra thấy tình trạng chung còn tốt, lưỡi đỏ, rêu vàng mỏng, mạch Hoãn, vô lực, bụng mềm, không có ấn đau và khối u, không sờ thấy gan lách. Xếp vào loại cửu lỵ, điều trị bằng phép điều hòa khí huyết, tiết nhiệt, đạo trệ, thêm các vị ôn dương. Sau khi uống Thược dược thang gia giảm 3 thang, bớt đau bụng, bớt mót rặn, bớt số lần đi ngoài, uống được 6 thang, hết hẳn đau bụng, hết mót rặn, vẫn còn ít máu mủ trong phân, uống thêm 3 thang nữa, khỏi hẳn. Theo dõi 2 năm, không thấy tái phát.
Nhận xét: Thược dược thang gia giảm là 1 bài thuốc xuất phát từ Thược dược thang có gia giảm, thích hợp với cửu lỵ, thấp nhiệt không nặng, nhưng thiên về khí không điều hòa, thận dương không đủ, hiệu quả lâm sàng rất tốt. Nếu phân lỏng, có thể thêm Xa tiền. Ly trực khuẩn mạn tính là thuộc về nhiệt lỵ, do lúc mới bị, chữa không đến nơi đến chốn, tà khí lưu trệ ở đại trường, gây nên thấp nhiệt nung nấu, khí huyết bị tổn thương, trọc tà không tẩy sạch, hóa thành phân có mủ, thanh dương không lên được, trọc âm không trừ được, thịt mới không sinh ra, cho nên thường đại tiện ra máu, mủ. Khí huyết không thông, đường chuyển vận bị hỏng mà sinh đau bụng mót rặn, lỵ lâu ngày ắt tổn thương đến phần dương của Tỳ Vị. Lý Trung Tử nói: “Thận là cửa ngõ của Vị, khai khiếu ở nhị âm, người chưa bị cửu lỵ thì Thận không bị tổn hại, vì vậy trị lỵ mà không biết bổ Thận thì không phải là trị lỵ”. Cho nên khi trị lỵ lâu ngày, ngoài việc điều hòa khí huyết, thông tích trệ, còn cần phải ôn bổ Thận dương, không được dùng vị đắng, tính hàn để công phạt nó. Bài này dùng Quy, Thược để hòa dinh, dưỡng huyết; Binh lang, Chỉ xác để hành khí đạo trệ; Lai phục tử để hành khí giải độc và cầm lỵ; Tửu đại hoàng tiết nhiệt thông phủ; Cam thảo để hòa trung kiện Tỳ; Nhục quế để ôn Thận trợ dương, tán hàn. Tất cả cùng điều hòa khí huyết, tiết nhiệt, đạo trệ, giải độc, chỉ lỵ, kiện Tỳ trợ dương, tất nhiên sẽ kết quả .
Thuốc trong vườn vừa giới thiệu đến bạn 4 bài thuốc chữa lỵ trực khuẩn.
Discussion about this post