Bệnh lỵ amip là một loại bệnh của đường ruột, thường lây qua phân-miệng. Biểu hiện của bệnh lỵ amip là đi ngoài lỏng, đôi khi có máu, nhày, phân sống.
1. Lỵ Amip
Biện chứng Đông y: Trường vị có thấp nhiệt, kiêm huyết phận có nhiệt độc, thấp nhiệt độc tà kết tụ. Cách trị: Thanh nhiệt khử thấp, giải độc chỉ lỵ. Đơn thuốc: Bạch đầu ông thang.
Bài thuốc: Bạch đầu ông 30g, Hoàng liên 9g, Hoàng bá 9g, Tần bì 9g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Theo dõi việc điều trị 14 bệnh nhân trong đó 10 người khỏi hẳn, các triệu chứng hết hoàn toàn, thử phân liền hai ba lần không còn thấy kén amip và amip. Bốn trường hợp khác có chuyển biến tốt: giảm nhẹ các triệu chứng, thử phán còn thấy amip và kén amip. Chưa gặp trường hợp nào không có kết quả.
Bệnh nhân nữ 66 tuổi, nông dân. Hai ngày trước đau bụng đi ngoài, mỗi ngày 8 – 10 lần, toàn thân lạnh, không có sức, mạch 110 lần mỗi phút, chất lưỡi đỏ sẫm, rêu vàng dầy, bụng và quanh rốn đều có ấn đau, thử phân: hồng cầu +++, bạch cầu +++, phát hiện có kén Entamoeba histolytica, chẩn đoán là lỵ amip. Cho dùng Bạch đầu ông thang, uống được 3 thang, bụng giảm đau, giảm số lần đi ngoài. Dùng liền 9 thang, các chứng mất hết, ba ngày thử phân một lần, thử tất cả 2 lần không còn thấy có kén amip và các tạp trùng khác, bệnh khỏi.
Bệnh nhân nam 54 tuổi, nông dân. Đau bụng, tiêu chảy gần 12 ngày, mỗi ngày đại tiện 7 – 8 lần, phân có đơm nhớt. Soi kính hiển vi, không thấy rõ máu mủ. Người bệnh nhăn nhó đau, vùng bụng và quanh rốn ấn đau, cơ bụng căng đầy, ruột sôi, rêu lưỡi vàng dầy. Soi phân thấy hồng cầu (++), bạch cầu (+++), có kén amip. Cho dùng Bạch đầu ông thang, uống 7 thang, đại tiện trở lại bình thường. Kiểm tra không còn dương tính nữa, các chứng trạng đều hết, khỏi bệnh .

2. Lỵ Amip
Biện chứng Đông y: Thấp Cách trị: Thanh nhiệt, giải độc, táo thấp, lương huyết, sát trùng, nhiệt dịch độc.
Đơn thuốc: Bạch đầu ông thang, uống thêm Nhu đảm tử.
Bài thuốc: Bạch đầu ông lũng, Hoàng bá 10, Hoàng liên 10g, Tần bì 5g. Sắc uống mỗi ngày một thang, chia làm hai lần.
Ngoài ra dùng Nha đảm tử bỏ vỏ 10 bạt, bao băng Quế nguyên nhục mà nuốt, mỗi ngày hai lần, uống cùng nước sắc nói trên.
Hiệu quả lâm sàng:
Đã điều trị 30 ca đều có công hiệu rất tốt.
Bệnh nhân nam thanh niên, diễn viên. Bệnh đã 4 năm, đau bụng, đi ngoài máu mủ, mót rặn, đi ngoại xong hậu môn nóng rát, mỗi ngày đại tiện hơn 10 lần. Thử phân thấy có amip, chẩn đoán lâm sàng là ly amip, cho dùng Bạch dầu ông thang, uống thêm Nha đảm tử. Tất cả 12 thang, các chứng đều hết. Bệnh khỏi.
Nhận xét:
Bài này dùng Bạch đầu ông để thanh nhiệt giải độc lương huyết; Hoàng bá, Hoàng liên lấy vị đắng, tính hàn để táo thấp, giải độc; Tần bì thanh nhiệt, sáp trường, cầm nhiệt lỵ; Nha đảm tử có tác dụng sát trùng (Phương Mạnh Nghi – tỉnh Giang Tây).
3. Lỵ Amip
Biện chứng Đông y: Nhiệt ẩn ở Phế Vị chuyển xuống đại trường.
Cách trị: Thanh nhiệt giải độc, tẩy sạch trường vị, Đơn thuốc: Ngân cúc bạch hổ thang.
Bài thuốc: Kim ngân hoa 15g, Dã cúc hoa 15g, Thạch cao sống 30g (sắc trước), Trị mẫu 15g, Khô cầm 15g, Cẩm văn 5g (cho sau), Cam thảo sống 5g. Sắc uống mỗi ngày một thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nam, 42 tuổi, công nhân đóng tàu, ngày 18/7/1972 đến khám bệnh. Bệnh nhân bị lỵ amip đã hơn nửa năm, đã trị bằng Tây y, không có kết quả. Hiện nay vẫn đi lỵ ra máu mủ mỗi ngày 7 – 8 lần, bắt mạch bộ thốn, quan bên phải Hoạt Sác có lực, môi lưỡi đỏ sẫm, rêu lưỡi vàng khô. Thử phân: hồng cầu +++, tế bào mủ ++, kén amip dương tính, Vị, Phế và Đại trường có quan hệ biểu lý, vì vậy nhiệt ẩn ở Phế Vị chuyển xuống đại trường mà thành lỵ. Dùng Ngân các bạch hổ thang thanh nhiệt giải độc, tẩy sạch trường vị, có thể làm cho bệnh yên. Uống được 3 thang đã bắt đầu thấy công hiệu, số lần đi ngoài giảm mỗi ngày 2 – 3 lần, máu mủ đã hết. Thuốc uống có hiệu quả, vì thế không đổi thuốc mà dùng thêm Nha đảm tử mỗi lần 15 hạt, uống với thuốc trên. Uống thêm 5 thang, phân đã như thường. Thử lại không thấy gì khác thường, cho ngừng thuốc nói trên, sau đó cho dùng Hương liên hoàn. Nhiều năm sau không tái phát.
Nhận xét: Thực tiễn lâm sàng chứng thực rằng: Ngân cúc bạch hổ thang trị lỵ trực khuẩn cấp tính rất kết quả.

4. Lỵ Amip
Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt uẩn kết. Cách trị: Sát trùng, chỉ lỵ, chỉ huyết.
Đơn thuốc: Phục phương Nha đảm tử hoàn.
Bài thuốc: Nha đảm tử (bỏ vỏ) 45g, Quán chúng 15g, Ngân hoa thán 15g, Sáp vàng 60g. Các thứ Nha đảm tử, Quán chúng, Ngân hoa thán, tán thành bột mịn, lại nấu chảy sáp, rang nóng hòa bột vào trộn đều, vê thành hoàn bằng hạt đậu tương. Uống lúc đói. Người lớn mỗi ngày 10 – 15 viên. Trẻ nhỏ giảm liều.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nam 11 tuổi, khám ngày 1/10/1963. Bệnh nhân kể đi ngoài ra máu đã hơn 2 năm. Hai năm qua đã tốn rất nhiều tiền thuốc mà không công hiệu. Hỏi ra biết thầy thuốc trước đây có người chữa theo chảy máu đường ruột, có người chữa theo trĩ nội. Hỏi kỹ biết 3 năm trước đã bị lỵ, tuy đã khỏi nhưng sau đó hay đi ngoài bất thường, mỗi ngày 3 – 4 bận, phân lỏng, có lúc có chất nhày trắng như mũi, có lúc bụng đau âm ỉ, có lúc thấy mót rặn. Vọng chẩn sắc mặt vàng nhạt, lưỡi không rêu, chất trắng nhạt, môi, miệng, móng tay và kết mạc mắt đều trắng bệch, bắt thấy mạch Hư, hơi Huyền mà Hoạt. Phía dưới rốn bên phải chỗ ruột Sigma co thắt như cuốn thừng, thăm hậu môn không thấy búi trĩ và dấu vết rách hậu môn. Căn cứ vào mạch chứng, chẩn đoán là đại tiện ra máu do ly amip. Thử phân thấy có amip hoạt động. Cho dùng 1 liều Phục phương Nha đảm tử hoàn, mỗi ngày uống 7 hoàn, lúc đói. Sau khi uống thuốc 5 ngày khám thấy giảm đại tiện ra máu. Sau 10 ngày, khám lại, thấy không còn đại tiện ra máu nữa. Sau 15 ngày, đại tiện hoàn toàn như thường, sắc mặt trở nên hồng nhuận. Theo dõi 17 năm không thấy tái phát.
Nhận xét: Nha đảm tử còn gọi là Khổ sâm tử, sách Bản thảo kinh viết: “Có thể thông ruột, khử tích trệ hóa thấp nhiệt, sát trùng, chỉ lỵ”. Trương Tích Thuần cho rằng: “Nha đảm tử vị rất đắng, tính mát, là thuốc thiết yếu để lương huyết giải độc, dùng để trị xích lỵ nhiệt tính, đại tiểu tiện ra máu do nhiệt rất tốt, có thể thanh nhiệt ở huyết phận và ở trong ruột, phòng thối rữa và sinh cơ nhục, có công hiệu lạ lùng, tôi từng dùng thuốc này chữa khỏi bệnh lỵ rất nặng”. Diệp Cát Tuyền nói: “Nha đảm tử dùng trên lâm sàng để trị người bị lỵ trực trùng mạn tính và lỵ amip đều khỏi, công hiệu tốt”. Quán chúng thanh thấp nhiệt, sát 3 thứ trùng, thu liễm, chỉ huyết; Ngân hoa thán giải độc, chỉ huyết. Cái hay của cả bài là ở chỗ làm hoàn bằng sáp vàng, bởi vì sáp chưa thể tan hoàn toàn ở dạ dày, nên tránh được tác dụng phụ của Nha đảm tử, làm nó đến thẳng chỗ bệnh để tiêu diệt trùng bệnh, tác dụng nhanh chóng. Cái mà Đông y gọi là “hưu tức lỵ”, “lãnh lỵ”, là đại tiện không đều, có lúc phân lỏng, nhầy, có lúc táo bón, bụng không đau thắt, chỉ hơi mót rặn, thấm thoát lâu ngày thành ra đại tiện ra máu, dần dần thiếu máu, gầy ốm, thân nhiệt hạ thấp, năm tháng tích lại làm người càng thêm suy nhược, vàng bủng, phù thũng, dùng bài thuốc này chuyển nguy thành yên, hồi phục sức khoẻ.
Thuốc trong vườn vừa giới thiệu đến bạn 4 bài thuốc chữa lỵ amip trong loạt bài thuốc đông y.
Discussion about this post