Nội dung
- 1. Viêm gan
- 2. Viêm gan do Virus
- 3. Viêm gan do Virus
- 3. Viêm gan cấp thể vàng da
- 4. Viêm gan cấp thể vàng da
- 5. Viêm gan cấp thể vàng da
- 6. Viêm gan cấp thể vàng da
- 7. Viêm gan truyền nhiễm không vàng da
- 8. Viêm gan B
- 9. Viêm gan mạn
- 10. Viêm gan mạn
- 12. Viêm gan dai dẳng
- 13. Viêm gan mạn
- 14. Viêm gan mạn
- 15. Viêm gan mạn
Viêm gan là bệnh do vius gây ra, làm tổn thương các mô gan một cách thầm lặng trong giai đoạn đầu. Nó chỉ biểu hiện khi vào giai đoạn cuối của bệnh.
1. Viêm gan
Biện chứng Đông y: Uất nhiệt ở kinh Can, khí trệ, huyết ứ.
Cách trị: Sơ Can thanh nhiệt, hóa ứ giảm men.
Đơn thuốc: Kiện can thang.
Bài thuốc: Sài hồ 6g, Sơn chi 6g, Bạch thược 12g, Qua lâu 12g, Hồng hoa 3g, Tiêu sơn tra 12g, Cam thảo 3g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Dùng Kiện can thang theo dõi trên lâm sàng 132 ca bệnh có tăng Transaminase glutamic, kết quả 110 ca khỏi (83,3%), biến chuyển tốt 13 ca (9,9 %), không kết quả 9 ca (6,8%), tỷ lệ có tác dụng 93,2% (La Quốc Quân – tỉnh Sơn Tây).
2. Viêm gan do Virus
Biện chứng Đông y: Can mất chức năng sơ tiết, lạc mạch bị ứ trệ.
Cách trị: Dưỡng Can hạ men.
Đơn thuốc: Duyệt can thang.
Bài thuốc: Tử đan sâm 10 – 20g, Toàn đương quy 15g, Đỗ hồng hoa 2 – 5g, Xuyên quế chi 2 – 3g, Sài hồ 10 – 15g, Diên hồ sách 10g, Lục ngạc mai 5g, Bình địa mộc 15 – 30g, Lục nguyệt tuyết 15 – 30g, Bạch hoa xà thiệt thảo 15 – 30g, Hoàng kỳ 10 – 20g, Ngư tinh thảo 20 – 30g. Sắc uống mỗi ngày một thang.
Vùng gan đau, có thể thêm Tam lăng, Nga truật; Transaminase cao, có thể thêm Bình địa mộc, Lục nguyệt tuyết, Bản lam căn; TTT tăng cao là chủ yếu, thêm Bạch hoa xà thiệt thảo.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nam, 31 tuổi, công nhân. Đến chẩn trị ngày 25/1/1980. Bệnh nhân kém ăn, mệt mỏi, mặt đen sạm, vùng gan đau, nước tiểu hơi đỏ, mạch Tế Sáp, rêu lưỡi mỏng trắng, bẩn. Chức năng gan: TTT 8,5 đơn vị, ZnTT trên 20 đơn vị, Transaminase 139 đơn vị (bình thường 40 đơn vị), A/G = 2,6/3,8, bờ gan trên ở gian sườn số 6, trên trung tuyến xương đòn phải dưới mũi ức 3,5cm, dưới bờ sườn lem, mềm vừa phải. Sau khi chẩn đoán, cho uống Duyệt can thang thêm Tam lăng, Nga truật, trọng dụng Bạch hoa xà thiệt thảo. Kiên trì uống hơn 2 tháng. Đến ngày 29/3/1980 xuất viện, lúc đó bệnh nhân có cảm giác dễ chịu, dạ dày dung nạp tốt, ăn được mỗi bữa 90 – 120g, vùng gan không còn đau, sắc mặt bớt sạm. TTT 7,5 đơn vị, ZnTT 12,5 đơn vị, Transaminase dưới 40 đơn vị, A/G 3,7/3,5. Xuất viện rồi tiếp tục uống Duyệt can thang, ngày 14/4 kiểm tra lại chức năng gan: TTT 7,0 đơn vị, Transaminase dưới 40 đơn vị, A/G 3,6/2,85. Vẫn tiếp tục kiên trì dùng Duyệt can thang, bỏ Xuyên quế chi. Đến 14 – 5 kiểm tra lại, tất cả đều hồi phục như thường: TTT 6 đơn vị, ZnTT 9 đơn vị, Transaminase dưới 40 đơn vị, A/G 3,7/2,6 .

3. Viêm gan do Virus
Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt nói uẩn, ngừng trí trung tiêu, Tỳ Vị không hoa, thăng giáng thất thương nung nấu Can Đởm.
Cách trị: Thanh nhiệt hóa thấp, hoa Vị giáng nghịch, sơ Can lợi Đởm.
Đơn thuốc: Nhân bồ thanh can ẩm.
Bài thuốc: Nhân trần 30 – 60g, Bồ công anh 30 – 60g, Sinh sơn chi 10g, Sài hồ 10g, Ngân hoa 12g, Bạch thược 10g, Bản lam căn 15g, Uất kim 10g, Chỉ xác 10g, Đại hoàng 6g, Vân linh 16g, Sơn tra 10g, Cam thảo 10g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Vàng da nặng, có thể dùng thêm Nhân trận đến 60g, dùng ít Bồ công anh còn 30g. Vùng gan không rõ, thêm Huyền hồ 10g; Gan to rất rõ, thêm Hồng hoa 6g, Đan sâm 10g; Phân lỏng, giảm hoặc bỏ hẳn Đại hoang; Nôn mửa nhiều, thêm Trúc như 6g. Nếu dùng thuốc sau một thời gian mà phản ứng Maclagan và phản ứng Hanger không giảm, có thể bỏ Bồ công anh, Ngân hoa, Bản lam căn, thêm Hoàng kỳ 20g, Đảng sâm 15g, Đan sâm 15g, Hoàng tinh 15g.
Hiệu quả lâm sàng:
Dùng Nhân bồ thanh can ẩm gia giảm trị nhiều ca viêm gan do siêu vi trùng đều có tác dụng rất tốt, đa số người bệnh dùng thuốc này xong đều hồi phục nhanh.
Bệnh nhân nữ, 8 tuổi, ngày 14/4/1978 sơ chấn, bệnh nhân gần đây mệt mỏi, buồn ngủ, lười nói, tinh thần ủ rũ, miệng họng khô, ngực sườn đầy trướng, nôn mửa, kém ăn, tiểu ít, nước tiểu vàng. Xét nghiệm thấy chỉ số hoàng đản bình thường, phản ứng Maclagan 10 đơn vị, phản ứng Hanger +++, Transaminase glutamic trên 480 đơn vị. Chẩn đoán lâm sàng là viêm gan truyền nhiễm cấp, thể không vàng da. Em gái bệnh nhân cũng mắc bệnh này mà phải vào viện, người nhà thấy săn sóc khó khăn, không đồng ý cho cô ta vào viện nữa, xin cho uống thuốc ở nhà. Khám thấy sắc mặt không tươi, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Huyền Sác. Căn cứ mạch, chứng, đây là bệnh thấp nhiệt ngăn trở trung tiêu, Tỳ Vị không hòa, thăng giáng thất thường, nung nấu Can Đởm, cần dùng phương pháp thanh nhiệt hóa thấp, hòa Vị giáng nghịch, sơ Can lợi Đởm, cho dùng bài Nhân bồ thanh can ẩm. Biện chứng, gia giảm dùng 27 thang, không đầy 1 tháng, tất cả các chứng đều hết. Kiểm tra lại chức năng gan thấy Transaminase glutamic hơi cao hơn bình thường, các chỉ tiêu khác đều giảm đến mức bình thường, khỏi bệnh về mặt lâm sàng, chỉ điều dưỡng để chóng hồi phục .
3. Viêm gan cấp thể vàng da
Cấp Tính Hoàng Đản Hình Truyền Nhiễm Tính Can Viêm
Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt uẩn tụ.
Cách trị: Thanh nhiệt lợi thấp thoái hoàng, đồng thời sơ Can lý Tỳ.
Đơn thuốc: Thanh can lợi hoàng thang.
Bài thuốc: Kim tiền thảo 50g, Nhân sâm 50g, Bản lam căn 50g, Hoàng cầm 25g, Xa tiền 20g, Mang tiêu 15g, Chỉ xác 20g, Mộc hương 15g, Tiêu tam tiên mỗi thứ 15g, Sài hồ 15g. Sắc uống ngày một thang.
Thiên về nhiệt, thấy đại tiện khô táo, bỏ Mộc hương, thêm Đại hoàng 10g; Thiên về thấp, thấy buồn nôn, nôn mửa khá nhiều, rêu lưỡi trắng bẩn, mạch Nhu Hoãn, bỏ Mang tiêu, thêm Bán hạ 15g, Hoắc hương 15g; Ăn uống không ngon mà bụng trướng, có thể thêm Sa nhân, Trần bì, Xuyên phác đều 15g; Gan lách to mãi không thu lại, thêm Miết giáp 50g, Đan sâm 25g; Transaminase cao không hạ, thêm Ngũ vị tử 50g.
Hiệu quả lâm sàng:
Theo dõi 50 ca bệnh này, dùng Thanh can lợi hoàng thang thấy hoàng đản lui và các chứng bệnh trường vị đều kiến hiệu nhanh chóng. Trong nửa tháng số bệnh nhân vàng da bình phục như thường chiếm 90%, số bệnh nhân trong vòng một tháng hết các hiện tượng ăn uống không ngon, sợ mỡ, bụng trên căng đầy, buồn nôn v.v chiếm 100%, số bệnh nhân trong vòng 1 tháng gan to trở lại bình thường và Transaminase giảm đến mức bình thường chiếm 74%.
Bệnh nhân nam, 14 tuổi, học sinh. Đến khám ngày 14/9/1977. Bệnh nhân ăn không ngon, sợ mỡ, mỏi mệt, bệnh đã 5 ngày. Mấy ngày nay thấy khắp mình mẩy mệt mỏi, bỏ học, nằm ở nhà, không thích hoạt động, ăn uống kém, buồn nôn, nhất là khi thấy mỡ, hai ngày gần đây nôn mửa, khám thấy tinh thần mệt mỏi, củng mạc vàng, da vàng, rêu lưỡi vàng bẩn. Tim phổi chưa có gì khác thường, bụng mềm, gõ bụng không thấy tiếng đục di động, hai chân chưa phù nề, mạch Huyền Sác. Khám chức năng gan: chỉ số hoàng đản 30 đơn vị, phản ứng Maclagan 16 đơn vị Transaminase glutamic 80 đơn vị. Chẩn đoán viêm gan cấp thể vàng da thể thấp nhiệt, cho dùng Thanh can lợi hoàng thang, bớt Mộc hương, thêm Ngũ vị tử 50g. Uống 3 thang, các chứng trường vị chuyển biến tốt rõ rệt, uống 6 thang giảm vàng da, các chứng đều tốt, chỉ còn thấy toàn thân mệt, cho uống thêm 3 thang, khám lại, thấy bệnh nhân tinh thần chuyển biến tốt như xưa, sờ không thấy gan ở dưới bờ sườn, có ở dưới mũi ức 0,5cm, không sờ thấy lách. Dùng bài thuốc trên, cho uống 1 thời gian nữa để củng cố kết quả. Sau 1 tháng kiểm tra lại, các chứng bệnh đều hết, chức năng gan bình thường, bệnh khỏi hoàn toàn .
4. Viêm gan cấp thể vàng da
Biện chứng Đông y: Tỳ thấp, Vị nhiệt, Can kinh có ứ trệ.
Cách trị: Khử thấp nhiệt, hóa ứ, sơ Can, hành khí. Đơn thuốc: Gia giảm nhân trần cao thang.
Bài thuốc: Nhân trần cao : Sinh chín ng Bản lam căn 15g, Bồ công anh lặng Nhẫn đang bu l Đại chỉ xác 6g, Bích ngọc tán lặc Sắc uống nẾU N một thang. Trẻ em giảm liều.
Nếu đại tiện không lợi, có thể thêm đại hoàng (sống); ăn không ngon, có thể thêm Trần bà. Mạch nha; Đau vùng gan, thêm Tam lăng Nga truật, Xuyên Duyệt Uất kim; Sốt, thêm Hoàng cầm, sài hồ
Hiệu quả lâm sàng
Bệnh nhân nam, 21 tuổi, học nghề khám tháng 3/1976. Bệnh nhân mấy tháng nay yếu mệt, ăn không ngon, vùng gan khó chịu, củng mạc vang, nước tiểu đỏ, đầu váng, mạch Huyền, rêu lưới trắng, chẩn đoán là viêm gan, xét nghiệm phản ứng Hanger , Transaminase 270 đơn vị. Cho uống gia giảm nhân trầm thang. Ướng được 7 thang, vùng gan không thấy đau nữa, ăn dần dần thấy ngon. Vẫn dùng bài thuốc nay, bỏ Tam lăng, nga truật, thêm Trần bì. Uống tiếp 7 tháng. Nước tiểu trong, đã ăn ngon. Kiểm tra chức năng gan, phản ứng Hanger +, Transaminase 145 đơn vị. Uống thêm 10 thang nữa, kiểm tra lại chức năng gan thấy hồi phục hoàn toàn, cảm giác về bệnh đều hết. Lại dùng Đơn chi tiêu dao thang 7 thang nữa để củng cố. Ngưng uống thuốc, theo dõi 5 năm chưa thấy gì khác thương.
Nhận xét: Lúc dùng Gia giảm nhân trần cao thang để điều trị chứng viêm gan truyền nhiễm thể không vàng da, nói chung, người lớn phải uống 1 tháng mới gọi là khỏi, trẻ nhỏ tương đối nhanh hơn, hơn nửa tháng là khỏi, hiệu quả lâm sang cao.
Năm 1970, xuống nông thôn phòng chữa bệnh, đến 4 nơi có dịch viêm gan, bệnh nhân phần lớn là trẻ em, hầu như nhà nào cũng mắc bệnh, trước sau đã chứa trên 1.000 ca, đều dùng Gia giảm nhân trần thang để trị, kết quả rất tốt .
5. Viêm gan cấp thể vàng da
Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt nung nấu.
Cách trị: Thanh nhiệt lợi thấp.
Đơn thuốc: Hoàng đản phương.
Bài thuốc: Nhân trần 30 – 60g, Uy linh tiên 30g, Đan sâm 30g, Đại hoàng 6 – 15g. Sắc uống mỗi ngày một thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Sáu tháng đầu năm 1977, theo dõi 52 ca viêm gan cấp thể vàng da truyền nhiễm. Thời gian hết vàng da dài nhất 14 ngày, ngắn nhất 6 ngày, trung bình 10,3 ngày; Thời gian giảm men dài nhất 18 ngày, ngắn nhất 10 ngày, trung bình 13,8 ngày.
Bệnh nhân nam, 17 tuổi. Bốn ngày trước bắt đầu sốt, tinh thần uể oải, mệt mỏi, kém ăn, muốn nôn, nôn mửa, sợ mỡ, bụng trướng, một ngày trước sốt giảm, củng mạc và da bắt đầu vàng. Vào bệnh viện kiểm tra thấy bụng mềm, gan dưới bờ sườn phải 4cm, dưới mũi ức 6cm, mềm, ấn đau, rêu vàng bẩn, lưới đỏ, mạch Huyền. Chức năng gan: chỉ số hoàng dán 64 đơn vị, Transaminase 701 đơn vị.
Uống Hoàng đàn thang thì tinh thần, ăn uống tình trạng nôn mửa đều tốt dần, ngày thứ 5 hồi phục như thường. Uống thuốc đến ngày thứ 8, da và củng mạc hết vàng, gan từ dưới sườn phải 4cm co lại còn 1,5cm, uống thuốc đến ngày thứ 10, chỉ số hoàng đán và Transaminase xuống bình thường. Năm viện tất cả 15 ngày, uống tất cả 15 thang Hoàng đản phương, các triệu chứng lâm sàng đều hết, xét nghiệm kiểm tra bình thường xuất viện.
6. Viêm gan cấp thể vàng da
Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt uẩn kết, phục sẵn ở trung tiêu.
Cách trị: Thanh nhiệt, khử thấp, hóa hoàng.
Đơn thuốc: Phục phương qua đế tản.
Bài thuốc: Qua đế 7 cái, Ma tước phẩn 7 hạt, Tiểu đậu 7 hạt, Hồng khô cốc 29 hạt. Tán mịn, chia làm 6 phần bằng nhau. Cứ 20 phút thổi vào hai bên lỗ mũi 1 phần, 2 giờ hít hết.
Trẻ nhỏ dưới 1 tuổi dùng 1/5 lượng trên; 1 – 4 tuổi dùng 1/3, 4 – 10 tuổi 1/2, 11 – 15 tuổi 2/3.
Thời gian ngừng dùng thuốc giữa đợt 7 – 10 ngày.
Hiệu quả lâm sàng:
Có tác dụng làm hết vàng da rất tốt. Quan sát có hệ thống 3 ca bệnh đều là nam giới, tuổi 6, 26, 28. Phát hiện vàng da sau 5 ngày, 6 ngày thì bắt đầu dùng Phục phương qua để tán, thổi vào mũi. Ngoài các thuốc vitamin B1 và C ra, chưa dùng thuốc nào khác. Ca thứ nhất dùng 2 liều, ca thứ hai dùng 4 liều, ca thứ 3 dùng 5 liều thì hoàn toàn hết vàng da sau 31 ngày, 30 ngày, 55 ngày (lần lượt), trước khi hết vàng da, các triệu chứng lâm sàng khác đều hồi phục như thường. Nói chung sau lần thứ nhất thổi thuốc vào mũi, từ mũi chảy ra khoảng 400ml nước vàng. Xét nghiệm thấy thành phần của nó gần giống huyết thanh.
Nhận xét: Sau khi thổi thuốc vào mũi, bạch cầu có thể tăng lên, có thể là do biểu hiện tăng sức miễn dịch của cơ thể, có lợi cho sự hồi phục chức năng gan. Có một số người dùng thuốc xong bị váng đầu, khô họng, phù niêm mạc, giống như các triệu chứng cảm mạo, nhưng sau khi dùng thuốc 2 – 24 giờ sẽ tự hết (Tống Tân Dân – tỉnh Hồ Nam).
7. Viêm gan truyền nhiễm không vàng da
Biện chứng Đông y: Mộc uất thừa thổ, Can Ty thất điều.
Cách trị: Sơ Can thực Tỳ, giải uất điều khí.
Đơn thuốc: Gia vị thư can ẩm.
Bài thuốc: Tử đan sâm 10g (sao rượu), Hàng bạch thược 10g (sao rượu), Phiêu bạch truật 9g (sao đất), Tây chỉ xác 6g (sao cám), Xuyên uất kim 6g, Thanh bì 5g (sao dấm), Bắc sài hồ 5g, Chích cam thảo 6g, Mạch nha (sao) 9g, Sinh bắc tra 6g, Kê nội kim 5g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Ngô X, nữ 50 tuổi, ngực nặng tức, đầu mỏi, bụng đầy, đầu váng, mắt hoa, tay chân yếu, lúc đói thì tay run, tim hồi hộp, ăn vào tim đập nhanh thêm, khó chịu, ợ ra mùi hôi, đại tiện mỗi ngày nhiều lần. Kiểm tra: gan to 2 ngón tay, phản ứng Maclagan 9 đơn vị, phản ứng Hanger (+++), Transaminase 400 đơn vị. Bệnh nhân Tỳ Vị vốn bị hư yếu, thường bị mờ mắt, bụng trướng, phân lỏng, viêm gan tái phát, gan to, sườn bên phải đau trướng, mạch Hư Huyền Hoãn, chất lưỡi nhạt, dày. Nguyên nhân bệnh là Tỳ hư thấp khốn, Can mộc không phát huy được uất, “Can có tà, khí của nó chạy ở 2 bên sườn”, “gan to, sẽ ép vào Vị, dồn lên họng, gây nên khô ở giữa hoành cách mô, làm cho sườn đau”. Tà chính tương bác, Can Tỳ thương tổn, vì vậy, dùng phép sơ Can thực Tỳ, vận hóa khí cơ. Cho uống Gia vị thư can ẩm. Uống hơn 50 thang, các chứng đều hết. Kiểm tra lại chức năng gan đều bình thường.
Nhận xét: Gia vị thư can ẩm là bài thuốc bổ mà không cấp, sơ mà không kích, đã dùng nhiều đều có công hiệu. Sau khi dùng thuốc Gia vị thư can ẩm mấy ngày, nếu như đau ở vùng sườn phải vẫn lan ra phía lưng, tay chân mỏi, đêm ngủ nóng hầm hập, ra mồ hôi, đó là Can âm bất túc, Can khí tán mà không liễm lại, hư dương tản ra mà không thu lại, có thể dùng tiếp Dưỡng can ẩm (Tử đan sâm 10g (sao rượu), Hàng bạch thược 10g, Sơn thù du 6g (bỏ hột), Thanh bì 5g (sao dấm), Xuyên uất kim 5g, Mẫu lệ 12g (sắc trước), Mạch nha (sao), Chích cam thảo 5g). Bài này theo ý tán thì thu, kìm lại để dưỡng, tức là theo ý “cấp phải hoãn, tán phải thu, tổn phải ích”. Đối với bệnh nhân Can uất Tỳ hư, tinh thần ngưng uất mà có các triệu chứng giống viêm gan không vàng da như trên, phải nghĩ đến Sài hồ “đạt uất cánh việt hư dương”, lại nghĩ đến Bạch truật “vận Tỳ hữu thương Can âm, cam toan liễm âm”, bài này như thế là được .
8. Viêm gan B
Biện chứng Đông y: Thấp nhiệt uẩn chưng, khí trệ huyết ứ.
Cách trị: Thanh nhiệt hóa ứ.
Đơn thuốc: Tề trạch thang.
Bài thuốc: Quảng tê giác 3g (tán bột mà nuốt), Trạch lan 15g, Bại tương thảo 15g, Thổ phục linh 30g. Đối toạ thảo 30g, Bình địa mộc 30g. Sắc uống mỗi ngày một thang.
Hiệu quả lâm sàng
Bệnh nhân nữ, 26 tuổi. Bị viêm gan B truyền nhiễm thể không vàng da đã hơn 4 tháng. Kiểm tra Transaminase glutamic 200 đơn vị, HAA dương tính, cảm thấy vùng gan đau, kinh nguyệt đến trễ, lưỡi tím, rêu mỏng bẩn. Đó là ứ nhiệt của Can bị dính lại không hóa được. Cho uống Tề trạch thang gia giảm. Sau khi điều trị, các xét nghiệm chức năng gan đều hồi phục như thường, Transaminase cũng giảm xuống như thường, HAA âm tính, kinh nguyệt bình thường, theo dõi 3 năm, mọi thứ đều tốt.
Nhận xét: Tê trạch thang có hiệu quả tốt khi dùng cho viêm gan mạn tính thời kỳ hoạt động, có tác dụng làm giảm men transaminase và phản ứng Hanger tốt. Theo dõi lâm sàng thì thấy riêng bột Quảng tê giác, đối với viêm gan trường diễn mà Transaminase không giảm rất có tác dụng, đồng thời làm cho HAA chuyển thành âm tính .

9. Viêm gan mạn
Biện chứng Đông y: Can âm hư kèm thấp. Cách trị: Dưỡng âm, bổ Can Thận, lợi thấp. Đơn thuốc: Tam ô nhân trần thang gia vị.
Bài thuốc: Thủ ô 15g, Ô đầu y 9g, Miên nhân trần 15g, Đơn bì 9g, Thuyền y 4g, Sinh địa 12g, Đương quy 4g, Cam thảo 6g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nam, 45 tuổi. Viêm gan mạn tính đã quá 7 năm. Ba năm trước kiểm tra đã từng phát hiện thấy HAA dương tính, 1 năm nay chuyển âm tính. Người bệnh chóng mặt, vùng gan có lúc đau, mỏi mệt, béo phì, miệng khô, đắng, bứt rứt không ngủ, lưỡi đỏ, rêu mỏng vàng, hơi bẩn, mạch Huyền Tế Sác. Gan dưới bờ sườn 1cm, độ cứng I – II, không sờ thấy lách, Transaminase trên 500 đơn vị, phản ứng Hanger (+++), HAA (-), AFP (-), chẩn đoán là viêm gan mạn tính tồn tại. Đây là chứng thuộc Can Thận âm hư cộng thêm thấp, điều trị bằng phép dưỡng âm, bổ Can Thận, lợi thấp. Dùng Tam ô nhân trần thang gia vị, uống được 1 tháng, Transaminase còn 210 đơn vị, các chứng nói trên đều chuyển biến tốt. Dùng bài trên gia giảm, uống thêm 1 tháng nữa, toàn bộ chức năng gan trở lại bình thường.
10. Viêm gan mạn
Biện chứng Đông y: Khí trệ thấp trở.
Cách trị: Lý khí, khử thấp.
Đơn thuốc: Hoàng thũng hoàn.
Bài thuốc: An quế 15g, Đinh hương 15g, Nhân trần 120g, Phụ phiến 60g, Khô phàn 45g, Gạo nếp 250g, Đậu đen 100g, Nội kim 45g, Đậu khấu 24g.
Tán nhỏ, ráy, luyện với mật làm thành hoàn to bằng bột đậu nành. Mỗi lần uống 10g, mỗi ngày uống 3 lần, uống với nước hoặc nước muối loãng.
Kiêng: Cả tanh, dầu mỡ, hành tỏi, ớt, gừng.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nữ, 32 tuổi, nông dân. Bệnh nhân bụng trướng đầy, mặt vàng, gầy guộc, chân phù, kém ăn, táo bón, 2 – 3 ngày mới đại tiện một lần, ngủ ít, chẩn đoán lâm sàng là viêm gan mạn tồn tại. Đã dùng một số thuốc hơn nửa năm nhưng không kết quả. Dùng thuốc lý khí khử thấp, cho uống Hoàng thũng hoàn được một liều, mọi chứng đều khỏi. Ngoài ra, tình trạng bế kinh kéo dài nhiều năm cũng khỏi, nay lại có kinh.
Nhận xét: Hoàng thũng hoàn vốn là thuốc gia truyền. Trên lâm sàng dùng chữa bệnh viêm gan mạn tính tồn tại, gan lách sưng to đều có tác dụng tốt, dần dần được chấp nhận sử dụng. Trong bài có Quế, Phụ, Khấu nhân để ôn bổ Tỳ Thận; Nhân trần, Kê nội kim để tả thấp nhiệt ở kinh Can; Đinh hương, Đậu đen, Gạo nếp để kiện Tỳ nhất là vị Khô phàn rất hay. Bài này từ bài Tiêu thạch phàn thạch tán trong sách Kim quỹ yếu lược của Trương Trọng Cảnh mà ra. Dùng bài này với các chứng trên kết quả rất tốt .
12. Viêm gan dai dẳng
Biện chứng Đông y: Tà độc xâm nhập, Can Tỳ bị hại, thấp nhiệt nội uẩn.
Cách trị: Thanh Can, tiết độc, hoạt huyết, giảm men. Đơn thuốc: Thanh can giáng mai thang.
Bài thuốc: Đương quy 3g, Xuyên khung 2g, Sinh địa 3g, Xích thược 3g, Bạch thược 3g, Xuyên liên 1,5g, Hồ liên 1g, Đơn bì 2g, Đan sâm 3g, Tử thảo 3g, Lưu ký nô 3g, Quỷ tiễn dực 3g, Lô hội 0,5g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Uống thuốc xong, lấy tình trạng dễ đại tiện làm chuẩn, nếu không thấy dễ đại tiện, thêm Sinh đại hoàng 3g (cho sau), nếu vẫn chưa đại tiện được, thêm Nguyễn minh phấn 3g (uống với nước thuốc).
Hiệu quả lâm sàng:
Đã dùng Thanh can giảng mai thang gia giảm để trị tất cả 90 ca, từ tháng 3/1973 đến tháng 2/1975, kiểm tra đều có Transaminase bất thường kéo dài, liệu trình 2 – 3 tháng, theo dõi 2 – 3 năm nữa. Trong số đó có 66 ca có kết quả rõ (kiểm tra chức năng gan tuần 3 lần thấy bình thường, các triệu chứng đều hết); 13 ca có chuyển biến tốt đẹp được tiếp tục điều trị thì lại có 10 ca đạt các tiêu chuẩn công hiệu rõ rệt, 11 ca không có kết quả.
Nhận xét: Thực tiễn ứng dụng lâm sàng chứng tỏ hiệu quả của Thanh can giáng mai thang gia giảm chữa bệnh viêm gan dai dẳng tương đối ổn định, ít có hiện tượng tái phát. Hiệu quả điều trị và thời gian mắc bệnh không liên quan nhưng liên quan đến liệu trình điều trị. Liệu trình điều trị càng dài, tác dụng điều trị càng tốt. Như vậy càng kiên trì uống thuốc hiệu quả càng tố .
13. Viêm gan mạn
Biện chứng Đông y: Can Đởm uất nhiệt, Vị mất hòa giáng.
Cách trị: Sơ Can giải uất, thanh nhiệt hòa vị.
Đơn thuốc: Gia vị tử nghịch tán thang.
Bài thuốc: Sài hồ 10g, Bạch thược 10g, Chỉ thực 10g, Uất kim 10g, Đan sâm 10 – 15g, Thần khúc 10g, Mạch nha 15g, Liên kiều 10 – 15g, Bản lam căn 15 – 20g, Hoắc hương 10g, Cam thảo 5g, Mao căn 10g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nữ, 38 tuổi, chẩn bệnh ngày 18/5/1974. Từ tháng 1/1975 bị bệnh viêm gan cấp thể vàng da, nằm viện điều trị 3 tháng, khỏi về cơ bản, xuất viện. Năm 1974 tái phát, lại nằm viện 5 tháng, lúc đó Transaminase không giảm, có lúc lên đến 600 đơn vị, bệnh nhân đã xin lên bệnh viện tỉnh. Kiểm tra gan to, gan dưới bờ sườn 2cm, sờ chưa thấy lách. Transaminase 560 đơn vị, phản * ứng Maclagan 20 đơn vị, phản ứng Hanger (+++), chỉ số hoàng đản bình thường. Chẩn đoán là viêm gan mạn tấn công. Bệnh nhân còn thấy hai bên sườn đau trướng, ăn uống không ngon, buồn nôn, tinh thần mệt mỏi, đại tiện lúc loãng lúc khô, nước tiểu vàng, đỏ, miệng đắng, họng khô, trong mũi có vẩy máu, lòng bàn tay nóng, lưỡi đỏ, rêu trắng bẩn, mạch Huyền hơi Sác. Đó là Can Đởm uất nhiệt, Vị không còn chức năng hòa giáng, điều trị bằng phép sơ Can, giải uất, thanh nhiệt, hòa Vị. Cho dùng Gia vị tử nghịch tán (thang), uống 30 thang, kiểm tra lại chức năng gan Transaminase 125 đơn vị, phản ứng Maclagan 7 đơn vị, phản ứng Hanger (+), các chứng khác đều hết. Lại uống trên 20 thang, kiểm tra lại chức năng gan, toàn bộ hồi phục như thường. Theo dõi 5 tháng chưa thấy gì khác thường.
Nhận xét: Dùng Gia vị tử nghịch tán (thang), tuỳ bệnh nhân mà gia giảm, đối với viêm gan thể không vàng da, thể vàng da (sau khi về cơ bản đã hết vàng da), viêm gan mạn tính và men Transaminase không giảm, đều có tác dụng tốt. Đã dùng bài này cho hơn 50 người bị các bệnh kể trên, kết quả rất tốt (Việt Thượng Cửu – tỉnh Hồ Nam).
14. Viêm gan mạn
Biện chứng Đông y: Tỳ khí hư nhược.
Cách trị: Kiện Tỳ bổ khí, phù thổ ức mộc.
Đơn thuốc: Mạn can lục vị ẩm.
Bài thuốc: Thái tử sâm 15g, Phục linh 15g, Bạch truật 12g, Xuyên tỳ giải 10g, Hoàng bì thụ diệp 15g, Cam thảo 5g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nữ 40 tuổi, cán bộ. Bị viêm gan thể không vàng da hơn 1 năm, đã mấy tháng nay không công tác được. Người mệt mỏi, kém ăn, sườn đau, sắc mặt vàng bủng, môi nhạt, lưỡi non nhạt, rêu trắng dày, mạch Huyền, gan to 2,5cm, Transaminase 500 đơn vị. Cho uống Mạn can lục vị ẩm, thêm Biển đậu 12g. Sau khi uống thuốc nửa tháng, giảm đau sườn, tinh thần tốt hơn, ăn ngon hơn nhưng vẫn còn mệt. Bỏ Hoàng bì thụ diệp, lại uống nửa tháng nữa, Transaminase giảm còn 200 đơn vị. Cứ theo bài trên gia giảm mà uống ba tháng, kiểm tra thấy đều bình thường, kiên trì dùng thuốc nửa năm để củng cố kết quả. Theo dõi 5 năm nữa chưa thấy bệnh tái phát.
Nhận xét: Viêm gan mạn là bệnh của Can Tỳ, nhưng chủ yếu là ở Tỳ, Tỳ hư là cộng tính của gốc bệnh, vì vậy, nguyên tắc chung để trị bệnh viêm gan mạn là kiện Tỳ, bổ khí, phù thổ ức mộc, còn các chứng viêm gan mạn khác đều có thể trị bằng Mạn can lục vị ẩm gia giảm, đạt được kết quả tốt (Đặng Thiết Đào – tỉnh Quảng Tây).
15. Viêm gan mạn
Biện chứng Đông y: Can uất Tỳ hư, khí trệ huyết ứ, thấp nhiệt chưa thanh.
Cách trị: Kiện Tỳ sơ Can, hoạt huyết hóa ứ, phối hợp thêm thanh nhiệt lợi thấp.
Đơn thuốc: Ích can thang.
Bài thuốc: Đảng sâm 12g, Bạch truật (sao) 10g, Thương truật (sao) 10g, Hoắc hương 10g, Nhân trần 15g, Đương quy 12g, Hương phụ 10g, Phật thủ 10g, Sơn tra 15g, Trạch lan 15g, Sinh mẫu lệ 15g, Vương bất lưu hành 12g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng:
Bệnh nhân nam 23 tuổi. Đến khám tháng 5/1971. Năm 1964, bệnh nhân bị bệnh viêm gan do virus cấp tính, đã điều trị nửa năm tại một bệnh viện, các triệu chứng và các chức năng gan đều đã có chuyển biến tốt và ra viện. Nhưng xuất viện mấy năm rồi vẫn thường đau ở vùng gan, khi mệt nhọc lại càng đau thêm. Tháng 10/1970 bắt đầu thấy đau ở vùng lách, đến tháng 5/1971, hai bên sườn đau nặng thêm, tay chân uể oải, không muốn ăn uống, đại tiện lỏng, lòng bàn chân tay nóng. Khám thấy tình trạng nói chung còn khá, bờ gan trên ở giữa sườn số 5, bờ dưới ở 2cm dưới mép sườn trên đường vạch giữa đòn, chất gan mềm, sờ đau, có thể sờ được lách đến 1cm, sờ hơi đau, mu bàn tay phải có thể thấy bờ răng cưa. Xét nghiệm: Chức năng gan trong phạm vi bình thường, tiểu cầu 120.000/mm3, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Hoạt. Cho dùng Ích can thang. Trong quá trình điều trị, đã gia giảm sử dụng Bội lan 10g, Sinh dĩ mễ 15g, Hồng hoa 12g, Miết giáp 12g. Đồng thời dùng cả các thuốc tây trợ gan. Sau hơn 2 tháng dùng thuốc thấy các triệu chứng đã chuyển biến tốt, ăn ngủ và đại tiểu tiện bình thường, chân tay đỡ uể oải, lòng bàn tay chân không còn nóng, giảm hẳn đau ở vùng gan lách, gan ở dưới sườn lem, sờ không thấy đau rõ, chưa sờ thấy lách. Xét nghiệm lại chức năng gan cũng chưa thấy gì khác thường, tiểu cầu tăng lên đến 168.000/ mm3. Sau đó dùng bài trên làm thành hoàn để uống củng cố tác dụng về sau.
Nhận xét: Bệnh nhân này sưng gan và lách, xét nghiệm chức năng gan bình thường mà chân tay lại uể oải, không thích ăn uống, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Hoạt, đó là các chứng thuộc Can uất Tỳ hư; Khí trệ huyết ứ, hai bên sườn đau trướng, mạch Hoạt, chứng tỏ là thấp nhiệt chưa thanh. Vì vậy trong việc phù chính, nặng về kiện Tỳ thư Can. Trong bài có Đảng sâm, Thương truật, Bạch truật (sao) để kiện Tỳ, táo thấp; Đương quy, Bạch thược dưỡng huyết nhu Can, lại phối hợp các thuốc sơ Can lý khí và hoạt huyết hóa ứ. Khí hành ắt là huyết dễ hoạt, huyết hoạt ắt ứ dễ trừ, như vậy có thể có hiệu lực điều trị mong muốn .
Thuốc trong vườn vừa giới thiệu đến bạn 15 bài thuốc đông y chữa viêm gan trong loạt bài về các bài thuốc đông y.
Discussion about this post